tính chuẩn xác hấp dẫn của văn bản thuyết minh violet


Thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương em Với 46 bài văn mẫu hay nhất do trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn đạt điểm cao trên cả nước sẽ giúp các em học sinh lớp 8 có thêm kiến ​​thức để viết bài văn tự sự của mình.

Đề tài: Viết bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương em

Viết bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương em
Viết bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương em

Thông qua 46 bài giảng về danh lam thắng cảnh, các em học sinh dễ dàng viết được bài văn thuyết minh về Vịnh Hạ Long, Hồ Ba Bể, Chùa Hương, Văn Miếu, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Chùa Một Cột,…

Nội dung chính

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về hồ Ba Bể

Hồ Ba Bể thuộc xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, cách Hà Nội hơn 200km về phía Bắc. Từ thành phố Bắc Kạn đến Hồ Ba Bể khoảng 70km về phía Tây Bắc. Hồ Ba Bể được hợp thành bởi 03 hồ là Pé Lèng, Pé Lù và Pé Lâm; là nơi hội tụ của 3 con sông là Sông Năng, Tả Han và Nam Cường; Hồ có chiều dài hơn 8km, nơi rộng nhất 2km, diện tích mặt nước 500 ha, độ sâu trung bình 20m, nơi sâu nhất 35m, chứa khoảng 90 triệu m3 nước; Trên hồ có nhiều đảo nhỏ xinh đẹp như đảo Góa phụ, đảo Phong Lan, đảo An Mã, ao Tiên… đáy hồ không bằng phẳng mà có nhiều núi ngầm, nhiều loài thủy sinh, cá nước ngọt sinh sống, đặc biệt có loài . Một số loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam như cá chép kính, cá dầm xanh, cá chiên… Hồ Ba Bể là một kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp, là nơi lý tưởng để du khách tham quan, trải nghiệm.

Theo truyền thuyết: Hồ Ba Bể xưa kia là vùng đất trù phú, dân cư đông đúc, mùa màng tươi tốt, muông thú đua nhau hót líu lo, cuộc sống rất thanh bình. Đầu xuân năm ấy, dân làng mở hội vui chơi ca hát; Ở trên trời, thấy nhân gian nhộn nhịp hoan hỷ, Đức Phật liền thi triển phép lạ để thử lòng người. Trời đã xế chiều, lễ hội sắp tàn, bỗng mọi người thấy một con bò lạ, lông vàng óng, rất đẹp xuất hiện, thấy bò không có chủ, nhân lúc đói bụng, dân xấu trong làng rủ nhau đi bắt bò vàng. để làm cho nó. thịt, họ đốt một đống rơm lớn, bò vàng, rồi cả làng cùng ăn thịnh soạn, chỉ vắng bóng mẹ con. Bà goá nghèo ở cuối làng vì không có quần áo đẹp để đi hội nên được họ mang đến chia cho ít người. da và đuôi bò mà bà già mang treo trên gác bếp. Hôm sau, có một bà lão quần áo rách nát vào làng ăn xin, bà đi đến đâu rận rận bay tứ tung, ai nhìn thấy cũng phải lắc đầu bỏ chạy, đến làng bà lão, đi từng nhà để hỏi Hôm qua có ai thấy con bò vàng rất đẹp của mình bị lạc không, ai cũng trả lời không biết, thế là bà lão đi khắp nơi hỏi đến tối vẫn không tìm thấy con bò vàng, mệt quá bà hỏi dân làng. để được giúp đỡ. Tôi xin nghỉ, nhưng mọi người đuổi bà đi không cho ở, đi đến cuối làng, gặp bà góa nghèo và cô con gái thương người, bà góa mời bà cụ về lều của mình ngủ qua đêm. . Đêm đó, đợi con ngủ say, bà góa kể hết sự việc con bò vàng bị mất cho bà lão và chỉ cho bà lão chiếc đuôi bò vẫn treo trên gác bếp. Hôm sau thức dậy sớm, trước khi chia tay, bà lão nói với mẹ con góa phụ: Tôi đến đây không phải để hỏi chuyện mất bò, chỉ là để thử lòng người thôi, cảm ơn hai mẹ con đã có lời. tấm lòng nhân ái, tối nay trước khi đi ngủ nhớ rắc trấu kĩ quanh nhà, lúc hoạn nạn thì thả trấu xuống nước mà làm việc có ích. Nói xong, người phụ nữ biến mất. Mãi đến lúc đó, mẹ con bà góa mới bàng hoàng hiểu ra sự việc. Buổi tối, trước khi đi ngủ, hai mẹ con cẩn thận làm theo lời dặn của lão ăn mày. Nửa đêm, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước, đất rung chuyển, nước ngập thành hồ, cả vùng chỉ còn trơ lại căn nhà của bà goá. mặt nước. Thấy dân làng chết đuối quá, nhớ đến lời dặn của bà lão, mẹ con góa phụ ném trấu xuống nước, lập tức vỏ trấu biến thành thuyền độc mộc, hai mẹ con vội chia hai ngả ra cứu người. sao chép. Kể từ đó, xuồng trở thành phương tiện di chuyển chính trên sông của người dân vùng Biển Hồ.

Nằm ở độ cao 150m so với mực nước biển, hồ Ba Bể được bao bọc bởi những bông sen cổ thụ và núi đá sa thạch có độ cao trên 1.000m cùng những cánh rừng già nguyên sinh, nước hồ trong xanh, mát mẻ quanh năm. mát rượi, cả hồ như một bức tranh thủy mặc, in đậm bóng núi, ngập tràn mây trời, trông như một tấm gương khổng lồ phản chiếu những dãy núi uốn lượn ẩn hiện trên mặt hồ, đặc biệt là những loài cây ở đây không mọc lên từ đất màu mỡ. nhưng mọc từ đá. Có thể bạn sẽ không thể ngờ rằng đằng sau những dãy núi đá vôi sừng sững lại có một hồ nước trong xanh, thơ mộng, yên ả, mênh mông giữa đại ngàn và đẹp đến mê hồn.

Hàng năm từ ngày 10 đến 13 tháng Giêng, Ba Bể tưng bừng diễn ra lễ hội mùa xuân; Lễ hội mùa xuân được tổ chức khi mùa màng đã xong, dân làng được nghỉ ngơi du xuân, du khách phương xa sẽ cùng vui hội với bà con dân tộc nơi đây, bạn sẽ được xem điệu múa khèn của các chàng trai. Các chàng trai Mông gọi bạn tình, nghe điệu Sli, lượn của các cô gái Tày, nghe dân tộc Sán Chay hát các làn điệu dân ca, tham gia các trò diễn như tung rồng, bịt mắt bắt dê, xem chọi bò, hội vật. đua thuyền độc mộc trên hồ,… Một điều đặc biệt nữa không thể bỏ qua khi đến thăm hồ Ba Bể chính là những chiếc thuyền độc mộc – Đây là nét độc đáo của hồ Ba Bể, được người dân trong vùng khắc ghi. Từ thân cây, chỉ có một mái chèo trên thuyền, nhìn người lái đò như ta đang xem một nghệ sĩ biểu diễn; Xưa thuyền Độc Mộc là phương tiện đi lại duy nhất của cư dân vùng lòng hồ và sông Năng, người dân dùng Độc Mộc để đánh cá, lấy củi, trẻ em dùng làm phương tiện đến trường. Ngày nay, do du lịch phát triển, hồ có thêm một phương tiện là thuyền máy đưa du khách tham quan theo lộ trình từ hồ ra sông Năng.

Xung quanh hồ là những bản làng nhà sàn của người Tày, sau một ngày dạo chơi trên hồ, du khách có thể dừng chân nghỉ ngơi tại nơi đây, được sống trong không khí đầm ấm đầy lòng hiếu khách của những người dân bản, nhà sàn. Tại đây rộng lớn, thoáng mát, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn truyền thống của đồng bào miền núi Ba Bể, nhâm nhi chén rượu ngô thơm nồng mùi gạo nếp, những tiết mục văn nghệ đặc sắc của đội văn nghệ thôn Pác Ngòi chắc chắn sẽ làm say lòng du khách.

Ngoài các điểm tham quan chính tại khu vực hồ, bạn có thể đi thuyền tham quan các điểm du lịch khác trong khu vực Vườn quốc gia Ba Bể như: động Puông, thác Đầu Đẳng trên tuyến sông Năng, thăm động Hua. Thác Ma, thác Bạc, hang Thẩm Phay (nằm cách hồ 7km về phía Tây Bắc) hay đi vòng về phía Tây Nam thăm Đồn Đèn – nơi có khí hậu ôn hòa quanh năm, thăm những vườn hoa súng, vườn khoai. Phố xá, thăm bản Mông, người Dao trên đỉnh núi hay cùng người dân địa phương khám phá hành trình “săn mây trên đỉnh núi Hoa”… Đến với Ba Bể với khí hậu trong lành mát mẻ, với cảnh sắc tươi đẹp. Được thiên nhiên ưu đãi, du khách có thể tham gia nhiều loại hình du lịch: leo núi, ngắm cảnh lòng hồ, tìm hiểu đời sống văn hóa các dân tộc, nghiên cứu khoa học và du lịch nghỉ dưỡng…

Do cấu tạo địa chất đặc biệt nên hồ Ba Bể có những nét rất khác so với các hồ thuộc loại trên thế giới. Vì vậy, tháng 3 năm 1995, Hội nghị quốc tế về hồ thế giới tổ chức tại Mỹ đã xếp hồ Ba Bể là một trong 20 hồ nước ngọt đẹp nhất thế giới cần được bảo vệ. Cuối năm 2004, Vườn quốc gia Ba Bể được công nhận là Vườn di sản Asean và năm 2012 được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt và là khu Ram Sa thứ ba của Việt Nam. Với không khí mát mẻ quanh năm của sông núi, du khách có thể đến thăm hồ Ba Bể vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Đến với hồ Ba Bể, du khách không chỉ được tham quan, trải nghiệm vẻ đẹp thiên nhiên vốn có nơi đây mà còn được thưởng thức những đặc sản truyền thống, hòa mình, khám phá bản sắc văn hóa của hồ Ba Bể. người dân địa phương ở đây.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Tràng An Cổ

“Ai là con Rồng Cháu Tiên Tháng hai mở hội Trường Yên ta lại về Thăm cố đô Đinh Lễ Núi non xanh nước biếc bốn bề như tranh.”

Du khách đã từng đặt chân đến Ninh Bình, không ai là không có dịp tò mò ghé thăm Tràng An cổ kính – trái tim của kinh đô Hoa Lư. Cũng như bao người khác, tôi và những người bạn của mình đã có dịp được tận mắt chiêm ngưỡng khu danh lam thắng cảnh này và rồi trầm trồ trước vẻ đẹp của nó.

Xuôi theo con đường dài bất tận, qua con đường hai bên là trận cờ lau gắn với những chiến tích lịch sử hào hùng, người người trở về với đất tổ thiêng liêng – Cố Đô Tràng An. Mảnh đất Ninh Bình là nơi sinh ra vị vua tài ba, người có công dựng nên một triều đại độc lập, tự cường trong lịch sử dân tộc – Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng dẹp loạn mười hai sứ quân đã ra đời. Ông xuất chinh năm 968 và trở thành người đầu tiên lên ngôi vua, lập ra một nước độc lập tự chủ. Mỗi danh thắng Tràng An Cổ đều gắn với một sự kiện, một mạch nối với triều đại Đinh Tiên Hoàng. Tràng An Cổ – nơi ẩn chứa nhiều góc khuất lịch sử. Nhờ sự sắp đặt tài tình của mẹ thiên nhiên, nhờ trái tim vĩ đại của tạo hóa đã ban tặng những tinh hoa quý giá nhất trên vùng đất địa linh nhân kiệt. Nâng niu và trân trọng những dấu ấn lịch sử đó hành trình khám phá Tràng An Cổ được thiết kế theo dấu chân xưa của vua Đinh, hướng Nam là hướng đóng quân của Đinh Bộ Lĩnh năm xưa. Có lẽ vậy mà đôi khi cái nhìn về Tràng An Cổ cũng khác đi. Không còn chỉ là những gì còn sót lại hay những gì tinh túy nhất mà thiên nhiên ban tặng, không chỉ là một bức tranh sơn thủy hữu tình mà nơi đây hiện lên như một cuốn sách vàng. Lật từng trang sách, ta thấy từng trang lịch sử hào hùng vẻ vang.

Chúng tôi, những người con được trở về với cội nguồn, tâm hồn Việt Nam – nơi vua Đinh từng ngự, cảm nhận không khí thiêng liêng thật là một trải nghiệm khó quên. Danh thắng Tràng An Cổ nằm cách Tràng An không xa nhưng quy mô nhỏ hơn và mang đậm dấu ấn lịch sử của triều đại nhà Lê ở Ninh Bình. Bước xuống xe, từ xa chúng tôi đã thấy tấm biển khu di tích Tràng An cổ. Rời xa chốn phồn hoa đô thị, ta được trải nghiệm bầu không khí trong lành, yên bình đậm chất tâm linh, cùng nhau trải nghiệm, lắng nghe những câu chuyện cổ tích, huyền bí để tìm về cội nguồn. thiêng liêng đối với mỗi con người Việt Nam.

Đi sâu vào bên trong Tràng An Cổ, người ta có thể lắng nghe âm thanh của thiên nhiên cố đô Hoa Lư. Bước lên những bậc đá, du khách bước lên ngôi đại bái thờ vua Đinh Tiên Hoàng, vị công thần nhà Đinh là Nguyễn Bặc và các đại thần, binh mã nhà Đinh. Ngai vàng giống như một viên ngọc quý trong hàm của một con rồng. Ai về thăm cũng có dịp dâng hương thể hiện tấm lòng của người dân Việt Nam. Khi bước vào không gian đền thờ, chúng ta có thể thấy những hiện vật linh thiêng từ thời vua Đinh Bộ Lĩnh.

Tương truyền, xưa kia Đinh Bộ Lĩnh cùng các đại thần, tướng lĩnh từng cư ngụ tại đây, trước khi xuất quân hay làm lễ tế cờ, khi thắng trận trở về đều làm lễ tạ ơn. Vì vậy, trên cửa cung treo bức đại tự: “Khai môn đắc phúc”. Vì vậy, tại đây, tất cả có thể cùng nhau chiêm bái, chắp tay thành tâm thể hiện tấm lòng của mình để cầu mong sự may mắn, hạnh phúc và ấm no. đầy đủ, sung túc đầy đủ. Không chỉ vậy, chúng ta còn có thể bày tỏ lòng kính trọng đối với những bề tôi trung thành của nhà Đinh đã từng hy sinh thân mình để giúp dân, giúp nước. Mọi người như hòa mình vào không khí lịch sử bi tráng. Vào sâu trong đại điện là chính điện thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Xưa, chính tại kinh thành Hoa Lư này, người xưng là Vạn Thắng Vương, chiêu mộ nghĩa sĩ dẹp loạn mười hai sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt, lấy niên hiệu là Thái Bình với ước nguyện chấn hưng thiên hạ. được hòa bình và con người. người hiền hòa. Ra khỏi chùa, tiếp tục đi lên những bậc đá để đến với Giếng Giải Oan – nơi cứu rỗi và giải thoát cho những oan hồn. Đây cũng là một trong những tín ngưỡng dân gian của chúng ta.

Chính vì thế động Đại Tôn lập đàn thờ Thập Bát Long thần. Khi gặp khó khăn, mừng đại sự, người ta đến nơi này thành tâm cầu phúc, cứu nạn.

Kết thúc trải nghiệm tại chùa, mọi người sẽ có cơ hội đi du thuyền trên sông. Dọc theo dòng Sào Khê lịch sử, chúng tôi có dịp được nghe người hướng dẫn viên say sưa giới thiệu về những trang sử vàng của quê hương trong nhịp mái chèo hòa cùng làn nước hữu tình. Dòng Sào Khê lịch sử chảy dọc cố đô Hoa Lư theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, ta đi qua hang Luồn. Tại đây, chúng ta có thể chiêm ngưỡng những dấu ấn lịch sử được khắc trực tiếp vào đá. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, những dấu ấn ấy vẫn vẹn nguyên và trở thành dấu ấn văn hóa chỉ có thể có ở Tràng An xưa, lưu truyền cho hậu thế. Du khách cũng có thể nép mình dưới những dãy núi đá vôi lấp lánh. Vậy là về với mảnh đất Ninh Bình, Tràng An Cổ không chỉ đưa ta trở về với những câu chuyện lịch sử hào hùng mà còn là hành trình khám phá vẻ đẹp của mảnh đất Cố đô. Dọc hai bên bờ sông là những ngôi làng cổ kính trải dài 2km mang tên làng Tràng An cổ và những thung lũng với những cái tên lạ tai như thung lũng Gió Lớn, thung lũng Gió Nhỏ, thung lũng Nác Nê… Không chỉ vậy, chúng ta còn có thể nhìn thấy những ngọn núi đá dưới ánh mặt trời như núi Trạng Nguyên, núi Hòn Sách. Khung cảnh hai bên sông thật nên thơ và yên bình nên đến đây, lòng người như được tĩnh lại sau những bộn bề của cuộc sống thường nhật. Mọi người có thể lướt qua những cây cầu, lắng nghe tiếng hát của hướng dẫn viên du lịch và đắm mình trong giai điệu của đất nước lịch sử.

Hiện nay, Tràng An Cổ vẫn được bảo tồn và gìn giữ để vẫn mang trong mình nét cổ kính, linh thiêng nhưng bên cạnh đó Tràng An Cổ cũng đang dần thay đổi. Công tác khai quật, trùng tu đang được tiến hành nhằm giúp du khách có thêm trải nghiệm cũng như cái nhìn toàn cảnh hơn về Tràng An Cổ linh thiêng gắn liền với triều đại nhà Đinh lừng lẫy một thời.

Tràng An cổ từ lâu đã trở thành điểm đến không thể thiếu trong hành trình tìm về những giá trị văn hóa truyền thống của đất nước. Chính vì vậy, Tràng An cổ là niềm tự hào của mỗi người dân Ninh Bình nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung đối với bạn bè quốc tế có dịp đặt chân đến, hòa chung nhịp sống văn hóa. sự giàu có ở đây.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Chùa Cổ Lễ

Đất nước Việt Nam chúng ta không thiếu những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử khiến thế giới khâm phục và ngưỡng mộ. Nếu có dịp về Nam Định, mời bạn ghé thăm thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh. Và tôi sẽ dẫn bạn đến chùa Cổ Lễ.

Chùa Cổ Lễ là một di tích lịch sử, nằm trên địa phận thị trấn Cổ Lễ, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Từ trung tâm thành phố, qua cầu, xuôi theo quốc lộ 21, đi về phía Nam đến km 16, ta sẽ thấy ngôi chùa nằm ở phía Tây thị trấn. Chùa Cổ Lễ, tên chữ là Thần Quang Tự, là một công trình kiến ​​trúc Phật giáo được xây dựng vào thế kỷ XII dưới thời vua Lý Thần Tôn, là nơi thờ Phật và thánh tổ Nguyễn Minh Không. Năm 29 tuổi, Đức Thánh Tổ xuất gia và là danh y đã chữa cho vua Lý Thần Tôn khỏi bệnh nan y, được vua phong là Lý Quốc Sư. Trước đây, chùa được xây dựng bằng gỗ theo lối kiến ​​trúc cổ kính, nhưng qua thời gian mưa nắng, mối mọt, ngôi chùa cổ đã xuống cấp trầm trọng. Năm 1902, đệ nhất tổ Phạm Quang Tuyên trụ trì chùa đã cho trùng tu, thiết kế lại ngôi chùa theo kiến ​​trúc mới “Nhật Thực lâu đài” với quy mô được mở rộng. Sau này chùa còn được tu sửa nhiều lần bằng các vật liệu xây dựng như gạch, vôi, vữa, mật mía, giấy bản để tạo nên sự vững chãi cho kiến ​​trúc của chùa.

Nhìn từ xa, toàn bộ khuôn viên chùa được bao bọc bởi những tán cây cổ thụ dày đặc. Bước vào cổng chùa, nhìn về bên trái, ta thấy tòa “Cửu phẩm liên hoa” được xây dựng từ năm 1926-1927, hoàn thành tượng đài chín tầng hoa sen nở. Tháp có 8 mặt được đặt trên lưng rùa lớn quay mặt vào chùa. Tâm tháp là một cây cột lớn gồm 98 bậc thang xoắn ốc lên đỉnh. Tương truyền, khi các Phật tử hoặc khách hành hương lên đến đỉnh tháp và chạm vào tượng Phật, họ sẽ gặp nhiều may mắn. Từ trên đỉnh tháp, du khách có thể phóng tầm mắt, quan sát và thấy hết vẻ đẹp của vùng quê. Chùa chính cao 29m, một chiều cao hiếm có trong các ngôi chùa cổ Việt Nam, được kết cấu theo thế Cửu Trùng Đài – gồm chín tòa khác nhau, nhiều tòa ngang dọc liên kết thành một khối. Nhìn chung, điểm nhấn ở đây là phong cách uốn khung, cuốn vòm hình hoa sen cách điệu được xây dựng bằng chất liệu vôi, cát và mật. Bức tường trước cửa chùa có sáu cột hình lục giác rỗng, ba mặt cột phía trước có ô chữ nhật, lắp kính màu khi thắp đèn bên trong, sắc xanh đỏ vàng trông huyền ảo như màu nước Phật. Bước vào chùa, trước khi nhìn những vòm tròn mái cong, trên trần trang trí những họa tiết sặc sỡ như những tấm thảm Ba Tư, ta thấy ngay trên thượng điện có pho tượng Phật Thích Ca rất lớn.

Hàng năm, lễ hội chùa diễn ra từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 9 âm lịch. Trong lễ hội thường diễn ra nhiều nghi lễ văn hóa truyền thống giàu tính nhân văn như lễ rước Phật, lễ cúng, các trò chơi dân gian như đua thuyền, cờ tướng. Chùa đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, là trụ sở của Phật giáo huyện Trực Ninh và là cơ sở của Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Nam Định.

Ngôi chùa có giá trị tâm linh rất lớn, đây là nơi giúp chúng ta trút bỏ mọi muộn phiền trong cuộc sống, là nơi mà mọi người có thể đến để cầu bình an, may mắn cho gia đình và bản thân. Chùa còn thể hiện những giá trị tôn giáo sâu sắc, đây cũng là nơi để người dân bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bao tăng ni phật tử, trụ trì chùa đã hy sinh vì đất nước. Chùa Cổ Lễ là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa ở vùng châu thổ sông Hồng, là người con Nam Định chúng ta tự hào nhưng cũng cần có trách nhiệm bảo vệ, tôn tạo. những di tích trường tồn với thời gian. Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ nhất như không vứt rác bừa bãi, không bẻ cành cây trong vườn chùa, không ném đất xuống ao hồ trong chùa,..

Chùa Cổ Lễ là vùng đất linh thiêng, giàu truyền thống văn hóa và lịch sử cách mạng, là bảo tàng sống về chữ Đạo xen lẫn chữ Đời. Đường nét kiến ​​trúc bên ngoài cũng đã thể hiện sự tiếp thu sáng tạo những tinh hoa nghệ thuật kiến ​​trúc nhân loại, đem lại sự mới lạ, tinh tế cho cảnh quan và các hạng mục công trình trong chùa. Dù đi đâu, tôi sẽ luôn tự hào về danh lam thắng cảnh này.

Tả danh lam thắng cảnh – Tả Sapa

Chưa đi chưa biết Sapa Đi rồi thấy ba bốn tầng mây Nắng quanh Thác Bạc Xối trắng tình bay đi

Sapa là thành phố sương mù, với nhiều cảnh đẹp làm say đắm lòng người. Chúng ta biết đến một Fansipan hùng vĩ, nóc nhà Đông Dương, những sườn đồi vàng óng khi lúa vào mùa gặt, và không thể không nhắc đến khu du lịch Hàm Rồng nổi tiếng vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. lãng mạn.

Núi Hàm Rồng nằm ở trung tâm thị trấn Sa Pa, điểm thấp nhất của núi lên tới 1450m và cao nhất là 1850m so với mực nước biển. Núi Hàm Rồng rất hùng vĩ, xen lẫn các kiểu núi khác nhau, với màu xanh ngút ngàn của cây cối bao trùm bốn phương. Do là địa hình núi cao nên mỗi khi mùa đông đến, nhiệt độ hạ thấp sẽ xuất hiện băng giá, thậm chí có tuyết rơi, gây sự thích thú, tò mò cho người dân cả nước.

Khu du lịch Hàm Rồng là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Sapa. Được khởi công xây dựng từ năm 1996, với diện tích 148ha. Khu du lịch này khai thác yếu tố thiên nhiên hoang sơ để tạo nên sức hút riêng. Đi từ chân núi lên đỉnh núi là những khung cảnh thiên nhiên khác nhau, vừa hùng vĩ nhưng cũng vô cùng thơ mộng. Là những vườn lan rộng lớn với hơn 6000 cây lan thuộc 194 loại lan khác nhau. Hoa thơm bốn mùa nở rộ, ong bướm bay lượn ngày đêm. Bên cạnh vườn lan là vườn hoa rất đa dạng và rực rỡ sắc màu: hoa bươm bướm, thược dược, cẩm tú cầu, hoa bất tử,… cùng hàng chục giống hoa lạ, độc đáo được đưa từ Nga, Pháp, Nhật về trồng thử nghiệm. Con đường lên Hàm Rồng quanh co, trước đây chưa được trải nhựa là thử thách đối với du khách, nhưng những năm gần đây đã được trải đá tạo điều kiện thuận lợi cho người dân chinh phục. đỉnh núi này. Trước khi lên đến đỉnh, chúng ta sẽ phải đi qua một con đường hẹp, dẫn đến động Tam Môn. Con đường này chỉ vừa một người đi qua, khi đi qua là cả một khoảng trời bao la mở ra trước mắt với vườn trái cây vô cùng đa dạng: đào, lê, mận,…

Lên đến sân mây, tức đỉnh Hàm Rồng, một khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mở ra trước mắt. Ở độ cao 1800m so với mực nước biển, chúng tôi cảm nhận được cái lạnh thấu xương khi ngay bên dưới, nắng vàng vẫn chói chang, có thể cảm nhận được những đám mây trắng bồng bềnh trong vườn luồn qua mái tóc. Một khung cảnh rất lãng mạn.

Núi Hàm Rồng là một trong những tiềm năng du lịch lớn của thành phố Lào Cai. Đến Sapa mà chưa đến núi Hàm Rồng là chưa đến Sapa. Khu du lịch này đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của vùng đất Lào Cai trù phú, giàu tài nguyên.

Sapa thơ mộng và hùng vĩ càng trở nên đẹp hơn khi có khu du lịch Hàm Rồng. Khu du lịch này không chỉ mang lại nguồn lợi lớn về kinh tế mà còn mang đến cho người dân một không gian nghỉ dưỡng thoải mái, sảng khoái, bỏ lại sau lưng những ồn ào khói bụi của thành phố. Để cho phép mọi người hoàn toàn đắm mình trong môi trường tự nhiên.

Không chỉ vậy, Sa Pa nói chung và Hàm Rồng nói riêng còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ:

Chiều Sapa – Huyền Thanh Hàm Rồng là cổng đá Khói vườn xanh soi bóng trăng mờ Vua hút thuốc của ánh sáng buổi tối Xóm nghèo mẹ già neo đơn..

Cùng vô số bài thơ hay và đặc sắc khác.

Một lần đến với Sa Pa, chúng ta sẽ nhớ mãi hình ảnh những em bé Mông xinh xắn, nụ cười giòn tan trong nắng vàng. Nhớ về một Hàm Rồng hùng vĩ nhưng bên cạnh đó là nét hoang sơ, mong manh, mộng mơ. Sapa là thế, cái lạnh thấu xương không thể làm phai mờ vẻ đẹp của thiên nhiên, hơi ấm của tình người.

Bài thuyết trình về Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam

Trong số rất nhiều địa điểm du lịch hiện nay, không phải địa điểm nào cũng được nhiều du khách ghé thăm. Tuy nhiên, nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng 40 phút lái xe, có một điểm du lịch đặc biệt thu hút các bạn trẻ đến tham quan, đó chính là Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một phần của khu du lịch Đồng Mô, thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, được khánh thành vào ngày 19 tháng 9 năm 2010 nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Từ nội thành đến đây mất khoảng 40 km. Đây là nơi có nhiều điểm tham quan hấp dẫn. Với diện tích khoảng 198,61 ha, khu làng các dân tộc được chia thành 4 cụm làng tương ứng với các vùng miền khác nhau. Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam được thiết kế với kiến ​​trúc tái hiện các làng, bản của các dân tộc nhằm giới thiệu, bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc.

Từ cổng vào, du khách có thể thuê xe điện đưa vào các bản làng của các dân tộc với giá vé phải chăng: 30.000 đồng/người lớn và trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí vào cửa. Hành trình tham quan các bản làng theo nhu cầu của du khách. Điểm cuối là Tháp Chàm, chùa Khmer. Ngôi chùa Khmer được xây dựng với một màu vàng óng bao trùm. Chùa được thiết kế mái nhọn, trần rộng, cột lớn, bên trong có tượng Phật lớn. Tháp Chăm cao 21 m, nối với cửa vào là tháp Đông, tháp này được thiết kế tương đối giống tháp Chăm và được làm bằng đất sét nung. Tiếp đến du khách được tham quan khu nhà sàn Tây Nguyên mô phỏng theo kiểu nhà sàn, bên trong nhà sàn rất mát mẻ, ngoài ra còn có nhà sàn phục vụ du khách nghỉ trưa. Đình được xây dựng rất lớn với kết cấu mái cao đặc trưng. Từ đây, du khách có thể di chuyển đến bản văn hóa các dân tộc Thái với cánh đồng hoa tam giác mạch, nhà chính và tham gia nhiều hoạt động vui chơi, văn nghệ do nghệ nhân các dân tộc biểu diễn. Khung cảnh ở đây tương đối yên bình và thoáng mát, thích hợp để nghỉ dưỡng.

Tại khu nghỉ dưỡng, du khách sẽ thường xuyên được tham gia các lễ hội. Các lễ hội đặc sắc thu hút du khách tham gia. Thông qua đó, giá trị của làng được phát huy. Hội xuân thường được tổ chức vào dịp đầu năm, nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như đu quay, ném bóng,..

Có thể khẳng định, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam là nơi tái hiện những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Đây là điểm du lịch vô cùng lý tưởng cho du khách trong nước cũng như quốc tế. Qua chuyến tham quan này, chúng ta hiểu thêm về những nét đặc sắc của dân tộc Việt Nam, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh, hoạt động thể thao, dưỡng sinh, văn nghệ,…

Thông qua những điểm tham quan độc đáo và các hoạt động văn hóa, nghệ thuật với nội dung, hình thức phong phú, hấp dẫn, tái hiện chân thực bản sắc dân tộc, Làng văn hóa các dân tộc đã giúp mỗi người khi đến đây bồi đắp thêm tình yêu quê hương đất nước và tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về di tích lịch sử cố đô Huế

Đến với dải đất miền Trung, ta sẽ được nghe những câu hò Nam Ai, Nam Bình, những làn điệu dân ca ngọt ngào như đã ngấm vào sông núi. Lời ca đưa ta tìm về nơi xuất phát của những thanh âm ấy – mảnh đất cố đô – Huế. Huế – một thành phố xinh đẹp: vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của kiến ​​trúc, vẻ đẹp của nghệ thuật và vẻ đẹp của con người xứ sở này.

Huế hay tôi gọi là Thừa Thiên Huế nằm ở miền Trung của nước ta. Phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Tây tựa vào dãy Trường Sơn và phía Tây nhìn ra biển. Từ thủ đô Hà Nội đến đây khoảng 66 km.

Có cái tên Huế hôm nay, là biết bao lần lịch sử sang trang, bao kiếp đổi thay. Tên gốc của Huế là Thuận Hóa. Đến đầu thế kỷ 16, Thuận Hóa trở thành vùng đất trù phú. Trong đó, Phú Xuân là một làng của Thuận Hóa, được Nguyễn Hoàng chọn làm kinh đô đầu tiên vào năm 1687. Một trăm năm sau, Phú Xuân chính thức trở thành kinh đô dưới thời vua Minh Mạng.

Huế là sự kết hợp hài hòa giữa núi, sông và biển. Đến Huế, ta có thể ghé núi Bạch Mã hóng gió biển; từ đèo Hải Vân để lắng nghe tiếng sóng biển rì rào. Tại đây, buổi sáng bạn có thể vi vu Trường Sơn, buổi chiều ra biển Thuận An và tối ngủ thuyền xuôi dòng sông Hương. Đặc biệt, đến với Huế, du khách không thể bỏ qua những công trình tiêu biểu của nơi đây. Đó chính là kinh thành Huế – một hệ thống ba vòng thành từ ngoài vào trong: Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành hay còn gọi là Hoàng thành. Trong Tử Cấm Thành có điện Cần Chánh, nơi vua làm việc hàng ngày. Còn điện Càn Thành là nơi vua ở và nghỉ ngơi. Kinh thành Huế là một công trình kiến ​​trúc có sự kết hợp giữa đông và tây, được gọi với cái tên đầy ngưỡng mộ: Kinh thành, thành phố của những vì sao.

Là một người quan tâm đến các di tích lịch sử, bạn không thể bỏ qua Lăng Minh Mạng. Lăng được khởi công xây dựng từ năm 1840 – trước khi vua Minh Mạng qua đời một năm. Nơi đây có cảnh sắc thiên nhiên quyến rũ với cửa núi Cẩm Khê ở tả ngạn sông Hương, cách thành phố Huế 12 km. Du khách đến Huế, nhất định phải thử trải nghiệm dạo thuyền trên sông Hương. Nói đến sông Hương là nói đến Huế, bởi không có sông Hương thì không có Huế mộng, Huế mộng…

“Đi đâu cũng nhớ quê Nhớ gió mát sông Hương, nhớ Ngự Bình trăng treo” (Dân gian)

Gọi là sông Hương vì theo truyền thuyết, dòng sông này chảy qua những cánh rừng thơm nên nước sông cũng thơm. Sông Hương bắt nguồn từ ngọn núi phía đông Trường Sơn, chảy qua kinh thành Huế với làn nước trong vắt, hiền hòa. Bên kia sông là cây cầu Tràng Tiền nổi tiếng. Cuối phía bắc là chợ Đông Ba – trung tâm thương mại của thành phố. Sông Hương còn là nơi diễn ra các lễ hội như thả đèn lồng, đua thuyền hay ca Huế trên thuyền Rồng.

Có sông Hương mà không có núi Ngự Bình thì chưa đầy đủ, chưa thể gọi là Huế. Núi Ngự Bình hay còn gọi là Bằng Sơn, cách kinh thành Huế khoảng 3km về phía Nam. Nhìn từ xa, Ngự Bình có dạng hình thang, đỉnh tương đối bằng phẳng, cao khoảng 104m; uy nghi và cân đối như một chiếc yên ngựa nổi bật trên nền trời xanh của Huế. Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là món quà vô giá của tạo hóa đã làm nên vẻ đẹp duyên dáng, hữu tình rất đặc trưng của xứ Huế.

Huế không chỉ được mệnh danh là xứ sở của thiên nhiên thơ mộng mà còn là thành phố của vườn cây, vườn hoa và chè xanh. Có thể kể đến Kim Long – vùng đất của nhiều hoa thơm trái ngọt từ Bắc chí Nam. Ta hiểu vì sao Hàn Mặc Tử có thể làm nên những vần thơ hay như vậy, bởi cảnh vật là thế:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên Vườn ai xanh như ngọc Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ”

Trên những con đường quê cố đô, những chiếc nón lá, tà áo dài Huế tung bay trong gió. Từ lâu, nón bài thơ Huế đã được biết đến với cách trang trí thơ, tranh độc đáo mang đậm phong cách Huế. Ở đó, có niềm thương nhưng cũng có nỗi buồn, như đã ăn sâu vào nếp ăn, nếp nghĩ, nếp sống của mỗi người.

Huế nổi tiếng với nền văn hóa ẩm thực phong phú và tuyệt vời. Từ những món ăn cung đình cầu kỳ, tinh tế đến những món chè Huế, ẩm thực đường phố,… sẵn sàng hớp hồn thực khách. Huế không chỉ đẹp mộng mơ, thơ mộng mà còn là thành phố anh hùng, thành phố của lịch sử và văn hóa. Huế là nơi triều đại cuối cùng của Việt Nam hưng thịnh. Huế đã cùng với nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. Cũng mảnh đất ấy đã chứng kiến ​​biết bao người con mãi mãi nằm xuống, biết bao ước mơ không tên, biết bao vết thương lòng không thể xóa nhòa.

Có thể ví Huế như một người con gái xinh đẹp, một người phụ nữ đảm đang và cũng là một người mẹ anh hùng vĩ đại. Chính những giá trị và tên tuổi ấy sẽ làm cho vùng đất này trở nên bất tử và sống mãi trong lòng người cùng thời gian.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về đền thờ Chu Văn An

Đã thành thông lệ, mỗi khi có dịp về thăm quê mẹ ở Chí Linh – Hải Dương, tôi thường cùng mẹ đi thăm một số đền chùa nằm trong quần thể di tích nơi đây, như Côn Sơn – Kiếp Bạc. , đền Nguyễn Trãi, đền Sinh, đền Chu Văn An… Với đền thờ Chu Văn An, mỗi lần đến đây, tôi lại cảm nhận sâu sắc hơn về đạo làm thầy, về đạo mà Thầy Chu Văn An đã gửi gắm lại hậu thế của ông. hơn 600 năm trước.

Từ quốc lộ 18, vượt qua con đường đất khoảng 3km, dốc núi quanh co giữa bạt ngàn những vườn nhãn, na, bưởi, men theo những rặng thông xanh mướt, chúng tôi đến với núi Phượng Hoàng, thuộc xã Vân An. xưa là xã Kiệt Đéc), huyện Chí Linh, Hải Dương, nơi có di tích đền thờ Chu Văn An. Ngôi chùa đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia năm 1998 và được trùng tu, tôn tạo và khánh thành vào đầu năm 2008.

Bước vào khuôn viên của khu di tích, ngay từ cổng vào đền chính, nổi bật là chữ “Học” bằng bút thư pháp trông như một tấm thảm nhung trải trên bậc đá để bước lên Đền. Tiếp đến là dòng “Vạn thế sư biểu” bằng chữ Hán in trên đá thể hiện lòng kính trọng của các thế hệ người Việt Nam đối với thầy giáo Chu Văn An. Chính điện được kiến ​​trúc theo kiểu “chồng diêm” tám mái thể hiện sự tôn vinh đẳng cấp, tầm vóc của các danh nhân theo phong tục Việt Nam. Nhà gỗ lim mái ngói, nhà bia cổ, bậc đá, khám thờ sơn son thếp vàng… Hai bên đền là giải vũ, sân thượng, trung đình, hạ đình, hai hòn non bộ. rồng, hai nhà bia… Nguồn gốc của ngôi chùa. Chính điện “Điện Lưu Quang”, nơi 600 năm trước thầy Chu Văn An sau khi từ bỏ áo bào, về mở trường dạy học, viết sách, làm thơ, nghiên cứu y học, sống cuộc đời của một nhà sư. “Báu vật” (ông ví mình như người tiều phu ẩn dật trong rừng sâu) bình yên, trong lành, hạnh phúc với cỏ cây, mây trời và non nước. Nhìn tổng thể, ngôi chùa không nguy nga, cầu kỳ nhưng được thiết kế, xây dựng, trang trí độc đáo, mang đậm màu sắc truyền thống, vừa toát lên vẻ uy nghiêm, ấm cúng và trang nghiêm.

Ông thủ đền với khuôn mặt hiền lành, nhân hậu đang quét lá rụng trên khoảng sân rộng, thấy chúng tôi lên chùa, ông liền chắp tay chào. Ông cho biết, vào mỗi dịp Tết đến xuân về hay tuần rằm, mồng một, nhất là vào mùa thi, nơi đây luôn tấp nập người dân địa phương và du khách thập phương đến chiêm bái, trẩy hội. Thuở ấy, trong phòng làm việc bên trái Văn Miếu, thường có các bậc nho sĩ mặc trang phục cổ kính ngồi viết chữ nghĩa bằng thứ mực đỏ đặc trưng, ​​tương truyền là màu mực của thầy Chu Văn An. trong cuộc sống hàng ngày của mình. trước hàm ý về lòng trung, sắc của mình với nhân dân, với đất nước. Vào những dịp này, các bậc phụ huynh, học sinh hay những nhà văn, nhà thơ nặng nợ chữ viết thường đến chùa xin chữ, cũng là để cầu cho việc học hành, văn đạt luôn suôn sẻ, thành đạt. nở và nụ.

Tôi cùng mẹ vào chánh điện để đảnh lễ. Vì là ngày thường nên nơi đây khá vắng vẻ, không nhiều du khách thập phương đến tham quan, chiêm bái. Khói hương trầm tư, lảng tránh. Vị sư trong tà áo nâu thỉnh một hồi chuông dài khiến không gian tĩnh mịch, yên bình nơi đây dường như càng thêm tĩnh lặng, hoài niệm theo tiếng chuông ngân vào không trung. Cả ngôi chùa nằm giữa bạt ngàn thông xanh trong ánh chiều thu vàng óng như lung linh trong sắc màu huyền thoại của người thầy tài hoa vẹn toàn: Vạn thế sư biểu Chu Văn An.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Chùa Hương

Nói đến văn hóa tâm linh của người Việt không thể không nhắc đến những ngôi chùa cổ kính, linh thiêng với vẻ đẹp độc đáo, trầm mặc, nơi thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với người xưa, nơi sinh hoạt tín ngưỡng. Một trong những ngôi chùa nổi tiếng và cổ kính của nước ta phải kể đến Chùa Hương – một danh lam thắng cảnh, một di tích lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng của Việt Nam.

Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn, là một quần thể văn hóa – tôn giáo của Việt Nam, bao gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, một số đình thờ thần, đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, nằm trên địa bàn xã Hương Sơn. , huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 vào thời Đàng Trong – Đàng Ngoài, sau đó bị phá hủy trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được xây dựng lại vào năm 1988 do Hòa thượng Thích Viên Thanh dưới sự sự hướng dẫn của cố Thượng tọa Thích Thanh Chấn.

Nơi đây gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Phật Bà, theo tích Phật xưa, con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương xứ Hương Lâm tên là Diệu Thiện chính là Chúa Bà hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. m, trải qua bao thử thách khổ nạn với 9 năm tu tập, cô đã đắc Phật quả để cứu độ chúng sinh.

Dưới bàn tay khéo léo của người xưa cùng với vẻ đẹp của tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, vẻ đẹp của Chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến ​​trúc nằm rải rác trong thung lũng suối Yến.

Khu chính là chùa Ngoài, hay còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm cách bến Tró không xa, khách hành hương ngược dòng suối Yến từ bến Đục lên chùa rồi xuống thuyền đi bộ. Tam quan chùa được xây dựng trên ba sân gạch rộng. Sân thứ ba dựng lầu chuông ba mái.

Đây là một công trình cổ kính với dáng vẻ độc đáo bởi để lộ hai đầu hồi hình tam giác ở tầng trên cùng. Tháp chuông này nguyên là chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông. Năm 1980 được dời về chùa Hương làm gác chuông. Chùa chính, tức chùa Trong, không phải là công trình nhân tạo mà là một hang đá tự nhiên.

Ở cửa động có một cổng lớn, mặt trước có bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là một con dốc dài, lối đi được xây thành 120 bậc đá. Vách động có khắc 5 chữ Hán “Nam Thiên Đệ Nhất Động” là bút tích của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm. Ngoài ra, hang còn có một số bia đá, văn thơ trên vách đá.

Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng âm lịch, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ hội, hàng triệu phật tử và du khách thập phương lại náo nức trẩy hội Chùa Hương.

Đỉnh điểm của lễ hội là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch. Đây là lễ hội của địa phương, nhưng ngày nay lễ khai ấn được hiểu theo nghĩa là mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong lễ hội rất đơn giản.

Trước ngày khai hội, tất cả các đình, chùa, đình, miếu đều thắp hương. Tại chùa Trong có lễ dâng hương gồm hương, hoa, đèn, nến, trái cây và đồ chay. Đến giờ cúng, có hai vị tăng ni mặc áo cà sa, khiêng đồ chay đi rồi dùng đồ cúng đến bàn thờ.

Từ ngày khai hội cho đến khi kết thúc hội, chỉ thỉnh thoảng có sư sãi của các chùa trên đến tụng kinh khoảng nửa tiếng tại các đình, miếu, điện. Hương khói mãi không dứt. Còn phần lễ thì có phần “thiền”. Nhưng ở đền ngoài, họ thờ các vị thần núi cao hơn với đủ màu sắc của Đạo giáo.

Đền Cửa Võng là một “chữ rồng linh thực” thờ bà chúa Thượng Ngàn, người cai quản vùng rừng núi xung quanh với danh xưng “cô hầu Hồng” của vị thần núi tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quán thờ ngũ hổ và cá thần. Có thể thấy, lễ là sự tổng hòa của toàn bộ hệ thống tín ngưỡng, gần như là tổng thể của các tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam.

Trong lễ hội có rước kiệu và rước sắc. Người dân trong làng đến nhà ông chuẩn bị lễ vật, khiêng bài văn tế ra đình để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các già làng làm lễ tế để rước thần làng về. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ của các hoạt động văn hóa dân tộc độc đáo như chèo thuyền, leo núi, chiếu chèo, văn nghệ.

Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo về kiến ​​trúc chùa chiền, cảnh sắc cùng với nét đặc sắc trong ngày lễ mà Chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và cả giá trị sống của nhân dân. chuỗi phát triển của loài người từ xa xưa cho đến ngày nay, cần phải bảo tồn, duy trì và bảo tồn những di sản mà tổ tiên để lại.

Như vậy, với những giá trị đó, Chùa Hương là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với Chùa Hương là đến với một không gian thanh tịnh, sống chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm. trong tâm hồn buông bỏ mọi áp lực, căng thẳng trong cuộc sống bên ngoài.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Vịnh Hạ Long

Nhắc đến danh lam thắng cảnh, non nước hữu tình ở Việt Nam khó có thể không nhắc đến Vịnh Hạ Long. Cái tên đó được mọi người Việt Nam biết đến. Nó không chỉ đẹp ở hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ quá khứ trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Con gà, con cóc quê hương cũng hóa Hạ Long thành cảnh”. Mới đây, Vịnh Hạ Long cũng được UNESCO công nhận là một trong bảy kỳ quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết Hạ Long có gì để được vinh danh như vậy?

Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn rồng con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Tàu của kẻ thù từ biển lao vào bờ ngay khi những con rồng đến thế giới. Rồng lập tức phun lửa đốt cháy chiến thuyền giặc, một phần Châu Ngọc dựng bức tường đá sừng sững khiến chiến thuyền giặc vỡ tan, chặn đường tiến của quân ngoại.

Sau khi chiến tranh kết thúc, thấy mặt đất yên bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây cần cù, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, Rồng mẹ và Rồng con đã không về trời mà ở lại dương gian nơi chiến trận. vừa diễn ra để bảo vệ muôn đời dân tộc Đại Việt. Vị trí Rồng mẹ đáp xuống là Hạ Long; Nơi chú rồng con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi rồng bơi trong làn nước trắng xóa là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, có bãi cát dài hơn 15 km).

Truyền thuyết khác kể rằng vào thời đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dòng sông xuống biển và đáp xuống vùng biển Đông Bắc tạo thành một bức tường thành để ngăn chặn bước tiến của đất nước. hải quân địch. Nơi rồng đáp xuống bảo vệ đất nước được gọi là Hạ Long.

Tiếp đến là đảo ở đây có 1969 đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo ở đây gồm hai loại là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở Bái Tử Long và Vịnh Hạ Long. Tại đây chúng tôi được chiêm ngưỡng hàng loạt hang động đẹp và nổi tiếng. Khu di sản thiên nhiên thế giới được công nhận có diện tích 434 km2  bao gồm 775 đảo, giống như một hình tam giác có 3 đỉnh: đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam), đảo Cống Tây (phía Tây, phía Đông) khu vực tiếp theo. với nó là vùng đệm và là di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng năm 1962.

Đến với Hạ Long người ta không thể rời mắt khỏi cảnh sắc nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thực sự cuốn hút người ta muốn đi đến tận cùng để tìm cái hữu hạn trong cái vô tận của núi trời ấy. Chúng tôi tưởng ngọn núi kia như những ngọn núi khổng lồ, ngồi trên thuyền mà ngước lên đo độ cao của những ngọn núi ấy thật là mệt. Đến bây giờ ta mới biết thế nào là hùng vĩ, thế nào là tình cảm giữa nước và non. Nước biển mặn có vị mặn của muối. Hang có nhũ đá trông như sắp đổ nhưng thực chất không đổ. Nó giống như hàng ngàn giọt ngọc lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi.

Những người ở đây cũng thực sự đáng yêu. Họ không chỉ hiếu khách mà còn giống như một hướng dẫn viên du lịch vừa giới thiệu quang cảnh vừa vững vàng đẩy bánh xe đến nơi khách muốn đến. Người dân nơi đây nồng hậu khi khách đến và khi khách ra về, để lại những ấn tượng khó quên về tình người dân quê đậm đà tình cảm mặn như muối biển.

Qua đây ta thấy Vịnh Hạ Long thật xứng đáng là một trong bảy kỳ quan thế giới. Nếu ai đã từng đến đây chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với cảnh đẹp và con người nơi đây. Ai chưa đến thì nhanh chân đến và tận hưởng những gì thiên nhiên, mẹ thiên nhiên ban tặng nhé.

Tham Khảo Thêm:  bài văn tả bạn thân lớp 6

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Văn Miếu

Văn Miếu nằm giữa thủ đô Hà Nội, được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ngay từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã quy tụ nhiều nhân tài, góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay, Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi đến thăm Hà Nội bởi lối kiến ​​trúc độc đáo và ấn tượng.

Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử nhưng nơi đây vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ bao đời nay. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lý. Văn Miếu được đưa vào hoạt động từ năm 1076 đến năm 1820, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.

Văn Miếu bao gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Quốc Tử Giám thờ Chu Văn An, người thầy đầu tiên của nhà trường. Trải qua năm tháng, Văn Miếu vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính.

Văn Miếu lúc đầu là nơi học tập của các vương hầu, về sau được mở rộng cho các bậc hiền tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự có tường gạch bao quanh. Với lối kiến ​​trúc được thiết kế từ xa xưa, in dấu bao thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.

Khi bước vào Văn Miếu, du khách sẽ đến cổng chính, trên cổng chính có chữ Văn Miếu. Ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai là Khuê Văn Các được xây dựng vào năm 1805 với 2 tầng, 8 mái rất khang trang. Đây là nơi tổ chức bình thơ, bình văn tế của các nghĩa sĩ xưa. Khu thứ ba từ Khuê Văn đến Đại Thành Môn, ở giữa có hồ hình vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh. Hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 tấm bia tiến sĩ ghi tên tuổi, quê quán, học vị của các danh nhân như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn…

Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; Có những cổ vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ứng do Nguyễn Nghiễm đúc năm 1768. Đây được coi là quả chuông lớn có giá trị văn hóa lịch sử lâu đời. Đĩa có hai chữ Thọ Xương ở mặt trong, mặt ngoài khắc bài Tôi biết theo kiểu cuốn thư kể về công dụng của loại nhạc cụ này. Khu 5 là trường Quốc Tử Giám. Đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài giỏi, đỗ đạt cao giúp nhà vua nâng cao kiến ​​thức. Từ ngôi trường này có nhiều người để lại dấu ấn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải…

Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đất nung, mái lợp ngói mang nét nghệ thuật thời Lê, Nguyễn. Những nét kiến ​​trúc độc đáo này được xây dựng một cách khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.

Cho đến ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là điểm đến du lịch của nhiều người, vừa để tưởng nhớ về cội nguồn, chiêm bái, vừa để tìm hiểu lịch sử cha ông. Nơi đây còn được coi là trung tâm của Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn hiến.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về phố cổ Hội An

Cơn mưa lạnh đầu mùa trút xuống những mái hiên cổ kính khiến phố cổ Hội An nhỏ bé như thu mình lại. Đâu đó trong đêm, tiếng kêu lanh lảnh vang lên, làm xôn xao một góc trời: “Ai gói bánh chưng, bánh dày?”.

Có lẽ, người trong nước cũng như người nước ngoài không ai không biết đến Hội An: một phố cổ, giản dị và mộc mạc, nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng chừng ba chục cây số. Hội An được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1999.

Bước chân vào phố cổ, du khách sẽ thực sự ngỡ ngàng trước một thế giới biệt lập. Không một tiếng xe cộ ầm ĩ, tiếng ồn từ nhà máy, xí nghiệp hay ánh đèn đủ màu. Tất cả đã lùi xa, không gian và thời gian như lắng đọng trên những mái ngói rêu phong xưa cũ, những nếp nhà gỗ cổ kính, chùa Cầu, hội quán Phúc Kiến, Quảng Đông, đang hiện hữu lặng lẽ, lặng lẽ để nhắc người ta về một quá khứ đã qua. Đến đây, du khách còn được thưởng thức những món ăn dân dã, tham quan làng nghề truyền thống, gặp gỡ cố nhân. Không chỉ vậy, du khách còn có thể tự tay làm cho mình những chiếc lọ, cốc, cốc gốm sứ để làm quà cho những người thân yêu.

Có lẽ, thời điểm phố cổ Hội An đẹp nhất là về đêm. Khu phố nhỏ này trở nên lãng mạn và sâu lắng hơn, mang đến cảm giác hoài niệm khó tả. Sáng kiến ​​khôi phục đèn lồng vào mùa thu năm 1998 đã có hiệu quả bất ngờ. Vào buổi tối, khoảng hơn hai mươi giờ, mọi người trong khu phố cổ trở lại cuộc sống của ba trăm năm trước. Họ tự nguyện tắt hết đèn nê-ông, thay vào đó là thứ ánh sáng mờ ảo, huyền ảo phát ra từ những chiếc đèn lồng. Những chiếc đèn tròn, lục giác kiểu Trung Quốc treo ở cửa, đèn lồng Nhật Bản hoặc đèn ống dài bằng giấy trắng treo trên mái hiên. Vào đêm hội đèn lồng, mọi người phải tắt tất cả các thiết bị điện. Tuy nhiên, họ không cảm thấy khó chịu vì điều này.

Cường độ ánh sáng đã giảm bớt nhưng ngọn lửa nhiệt huyết của mỗi người vẫn bùng cháy mạnh mẽ khi đi qua phố cổ. Nhìn những mái nhà xưa, những thiếu nữ áo dài trắng đang chăm chỉ làm việc dưới ánh đèn lồng, hay hai cụ già râu tóc bạc phơ thi cờ, nhâm nhi tách trà cũng dưới ánh đèn lung linh. Phép thuật đó. Dường như con người đang quay ngược thời gian để sống với những thứ đã từng tồn tại.

Vào các đêm hội, người dân thường tổ chức đập niêu, kéo co và nhiều trò chơi dân gian khác. Du khách cũng như người dân phố cổ tham gia rất đông đảo và nhiệt tình, tạo nên khung cảnh náo nhiệt và tràn đầy sức sống cho thành phố. Tiếng hò giã gạo, hò khoan vang lên trên những con thuyền trong đêm thanh tĩnh. Những cô gái mặc áo bà ba dịu dàng, thanh tao làm rung động trái tim biết bao lữ khách.

Hội An đã trở thành một huyền thoại, một dấu ấn không thể phai mờ của lịch sử, của những ai đã từng đặt chân đến đây. Hội An sẽ mãi tồn tại trong tâm trí chúng ta, để người ta được sống với quá khứ, với những nét đẹp bình dị của quá khứ.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Bến Nhà Rồng

“Thành phố Hồ Chí Minh quê hương ta đã viết nên bản anh hùng ca, bản anh hùng ca ngàn năm chói lọi trường tồn…”. Lời ca cất lên, dấy lên trong mỗi người niềm tự hào được là công dân của một thành phố anh hùng, mang nhiều dấu ấn lịch sử thiêng liêng trong suốt cuộc đấu tranh hào hùng của dân tộc để: “Việt Nam ta gọi tên ta”. Từ thành phố này, tại Bến Nhà Rồng, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước, để rồi trong hơn sáu mươi tỉnh, thành phố chỉ có nơi đây được vinh dự mang tên Bác kính yêu. Bến Nhà Rồng được xây dựng thành bảo tàng Hồ Chí Minh và là địa chỉ thân thương của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân thành phố nói riêng.

Sau một thế kỷ rưỡi (150 năm), trải qua bao thăng trầm, Bến Nhà Rồng vẫn sừng sững uy nghi tại số 1 Nguyễn Tất Thành, Q.4, TP.HCM (đường Trịnh Minh Thế trước đây). . Ngay cửa ngõ thương cảng sầm uất nhất cả nước – cảng Sài Gòn. Bến Nhà Rồng tọa lạc ngay trung tâm, trước mặt là bến Bạch Đằng lộng gió. Khi thành phố lên đèn, cả khu vực lung linh, huyền ảo, góp phần tô điểm cho thành phố thêm lộng lẫy, xứng danh “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Bến Nhà Rồng nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, là một chi nhánh trong hệ thống các bảo tàng, di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cả nước. Nơi đây, trước ngày 30/4/1975 là trụ sở của Tập đoàn Vận tải Hoàng Đế (Messageries Impériales) – một trong những công trình đầu tiên được thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Tòa nhà được xây dựng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 thì hoàn thành theo lối kiến ​​trúc phương Tây, nhưng trên nóc có gắn hai con rồng chầu nguyệt theo mô típ “lưỡng long chầu nguyệt”, một kiểu trang trí quen thuộc. của các ngôi chùa Việt Nam. Với kiến ​​trúc độc đáo đó, Tổng công ty vận tải Hoàng Đế được gọi là Nhà Rồng và bến cảng được đặt tên là Bến Nhà Rồng. Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền Nam Kỳ quản lý, họ cho sửa lại mái ngói của ngôi đình và thay đôi rồng cũ bằng hai con rồng mới hướng ra ngoài. Với diện tích xây dựng tòa nhà gần 1500m², diện tích còn lại là sân vườn tràn ngập màu xanh với không khí mát mẻ, khung cảnh thơ mộng gồm hơn 400 loại cây quý từ khắp mọi miền đất nước. ở đây khoe sắc hương. Chúng ta xúc động khi nhìn cây Tân Trào của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, cây bồ đề của Tổng thống Ấn Độ.

Thời gian trôi qua, Bến Nhà Rồng ngày càng trở thành địa chỉ lưu giữ những sự kiện trọng đại, trọng đại gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Ngày 5/6/1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành với hai bàn tay trắng bước xuống con tàu Latouche Treville trong hành trình “30 năm không ngơi nghỉ”: Người đi khắp nơi tìm cờ châu Mỹ, châu Phi. giải phóng các tầng trời nô lệ.

Với lịch sử thiêng liêng của Bến Nhà Rồng, nơi đây đã lưu truyền nhiều tư liệu, hiện vật quý giá giúp nhân dân hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ thiên tài, vị cha già kính yêu. của dân tộc – Hồ Chí Minh. Sau nhiều lần điều chỉnh, cơ bản bảo tàng được xây dựng thành 12 phòng trưng bày với khoảng 170 tài liệu, hình ảnh, hiện vật. Nếu ai đã từng đến bảo tàng sẽ không khỏi lặng người và xúc động khi được tận mắt chiêm ngưỡng những kỷ vật về Người.

Bảo tàng là một trong những nơi để mọi người đến nghiên cứu, trao đổi, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ. Hàng năm, bảo tàng thu hút hàng triệu lượt khách tham quan trong và ngoài nước. Bến Nhà Rồng, Bảo tàng Hồ Chí Minh vinh dự được chọn là biểu tượng của TP nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn TP.HCM. Ngày qua ngày, các thế hệ con cháu vẫn đến trước tượng Người thắp nén nhang tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với người đẹp nhất mọi thời đại của dân tộc:

“Cùng nhau cầu nguyện Người đạt đến mãi mãi Vững vàng như đỉnh Trường Sơn.”

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Đà Lạt

Đà Lạt – đối với tôi đây là một thành phố đáng đến, một thành phố đáng sống và không biết từ bao giờ tôi đã yêu Đà Lạt đến thế. Thành phố sương mù này mang vẻ đẹp dịu dàng và thanh lịch mà chúng ta khó có thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác trên đất nước Việt Nam. Nhắc đến Đà Lạt, dù bạn là người mới đến cũng có rất nhiều điều muốn chia sẻ, muốn bày tỏ và đặc biệt là sẽ kể về Đà Lạt một cách nhiệt tình nhất.

Từ Bắc chí Nam, dọc dải đất hình chữ S này có biết bao danh lam thắng cảnh, biết bao vùng đất đẹp được thiên nhiên ưu đãi, nhưng với tôi, Đà Lạt là một trong những nơi được thiên nhiên ưu ái nhất. thiên vị nhất của mẹ thiên nhiên. Là một thành phố nhỏ của tỉnh Lâm Đồng, một thành phố trên cao nguyên Lâm Viên của Tây Nguyên Việt Nam. Vị trí của thành phố nằm trên cao nguyên nên có độ cao khoảng 1500m so với mực nước biển, với diện tích hơn 39.000km2 giáp các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Lâm Hà, Đức Trọng. Đà Lạt nổi tiếng là thành phố của hồ và thác với khoảng 16 hồ lớn nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất là Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố.

Thành phố Đà Lạt nằm ở vị trí đặc biệt, tạo nên khí hậu đặc biệt khác với các vùng lân cận, nơi đây có khí hậu miền núi ôn hòa, mát mẻ quanh năm, được bao bọc bởi những rừng thông xanh mướt khác thường. Nơi đây tạo nên bầu không khí trong lành, thoáng mát rất thích hợp để nghỉ dưỡng, tham quan và du lịch trải nghiệm. Nhiệt độ trung bình ở đây luôn dưới 20 độ C kể cả trong những tháng nóng nhất, ở Đà Lạt sương mù rất phổ biến, có tới 80-85 ngày trong năm có sương mù. Trong 4-5 ngày tới xuất hiện sương mù dày đặc, có lẽ đây là lý do Đà Lạt được mệnh danh là thành phố sương mù. Đà Lạt còn nổi tiếng là thành phố hoa, bởi phù hợp với nhiều loại hoa, sự đa dạng và phong phú của các loài hoa đã giúp thành phố này tổ chức được các lễ hội, lễ hội hoa. hoa với quy mô ngày càng mở rộng, thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. Không chỉ có hoa, Đà Lạt còn là xứ sở của trái cây, nhiều loại trái cây là đặc sản của nơi đây như dâu tây, hồng, mận, đào…

Nhắc đến Đà Lạt mà không nhắc đến con người nơi đây quả là một thiếu sót. Người Đà Lạt rất thanh lịch, họ mang trong mình nhịp sống chậm rãi, yên bình cùng với bản tính rất nồng hậu và mến khách, chẳng vì thế mà ai đến vùng đất này cũng dành những mỹ từ đẹp đẽ nhất để nói về Đà Lạt. Sự phóng khoáng, mến khách của người dân nơi đây là ấn tượng đẹp cũng như sợi dây níu giữ trong lòng du khách. Từ lâu Đà Lạt đã trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng nằm trong top những địa điểm du lịch của Việt Nam, hàng năm nơi đây thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước đến tham quan và nghỉ dưỡng.

Du lịch Đà Lạt ngày càng chuyển mình, nhiều nhà hàng, khách sạn cao cấp mọc lên, các điểm tham quan du lịch cũng nhiều hơn, tạo cho Đà Lạt một diện mạo mới, một phong cách rất châu Âu. u mà người ta thường gọi là “Paris thu nhỏ”. Ở Đà Lạt khó có thể nhớ hết những địa điểm du lịch hấp dẫn nhưng đã đến đây thì không thể bỏ qua những địa điểm nổi tiếng như hồ Xuân Hương – trái tim của thành phố với view bao quanh là rừng thông, bãi cỏ, vườn hoa. rất nên thơ và trữ tình. Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được Hội Kiến trúc sư thế giới công nhận là một trong 1000 công trình độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20, hay Dinh Bảo Đại – một dinh thự đẹp và trang nhã gắn liền với những thị trấn nhỏ. Khung cảnh tạo nên một công trình đồ sộ. Thung lũng tình yêu là địa điểm không thể bỏ qua của các bạn trẻ, sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, sông nước hữu tình, ngàn hoa khoe sắc và không khí trong lành đã thu hút mọi du khách thả mình vào khung cảnh lãng mạn nhất. Cuối cùng là núi Lang Biang – biểu tượng huyền thoại của một câu chuyện tình đẹp nhất xứ sở sương mù, một ngọn núi hùng vĩ đầy vẻ đẹp nhưng lại gần gũi.

Với lịch sử hơn một thế kỷ, Đà Lạt đã trải qua bao thăng trầm, bao lần xây dựng và đổi mới, nhưng vẫn giữ được nét duyên dáng và thanh lịch vốn có. Có thể nói, Đà Lạt như một bông hoa xinh đẹp giữa rừng hoa Việt Nam, một vẻ đẹp mà theo thời gian càng đẹp, càng được nhiều người ngưỡng mộ.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Chùa Một Cột

Chùa Một Cột là một công trình kiến ​​trúc độc đáo gắn liền với các giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc. Chùa Một Cột không chỉ được đánh giá là ngôi chùa có kiến ​​trúc nghệ thuật độc đáo ở Việt Nam cũng như châu Á, mà còn được biết đến là điểm đến tâm linh, trở thành biểu tượng văn hóa ngàn năm của thủ đô Hà Nội.

Chùa Một Cột còn có tên gọi khác là Diên Hựu Tự hay Liên Hoa Đài, ngôi chùa nổi tiếng với kiến ​​trúc xây dựng độc đáo, toàn bộ ngôi chùa được dựng trên một cột đá cao khoảng 4m. Chùa được xây dựng từ thời Lý trên đất làng Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, nằm về phía Tây của Hoàng thành Thăng Long xưa. Ngày nay, chùa tọa lạc trên phố Chùa Một Cột, cạnh Quảng trường Ba Đình – Lăng Chủ tịch.

Chùa Một Cột được xây dựng dựa trên cảm hứng về giấc mơ của vua Lý Thái Tông. Trong một giấc mơ, nhà vua thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen và được mời lên đài. Tỉnh dậy, vua kể lại giấc mộng cho quần thần và được hòa thượng Thiên Tuế khuyên xây chùa. Vì vậy, vào mùa đông năm 1049, vua Lý Thái Tông cho xây chùa. Để kiến ​​tạo chùa Một Cột, nhà vua cho dựng một cột đá giữa hồ và xây một đài hoa sen, bên trên có tượng Bồ tát Quán Thế Âm.

Sau khi dựng chùa, vua Lý Anh Tông thường lui tới cầu phúc, làm việc thiện nên ít lâu sau hoàng hậu có thai, hạ sinh một hoàng tử khôi ngô tuấn tú. Nhờ sự ra đời kỳ diệu của hoàng tử, nhà vua coi đó là ân huệ của trời đất nên đã cho xây thêm một ngôi chùa bên cạnh chùa một cột để tạ ơn. Cụm di tích này được đặt tên là Diên Hựu Tự với ý nguyện “phúc lộc trường tồn”.

Vì muốn trùng tu lại chùa, năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho người trùng tu và dựng thêm hai ngôi tháp lợp ngói sứ trắng trước sân. Ba năm sau, Nguyên Phi Ỷ Lan hạ lệnh thi triển “Lẽ thường tình” để đánh thức lòng người trong thiên hạ.

Chùa Một Cột là một di tích lịch sử có giá trị nghệ thuật và được đánh giá cao không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Thật vậy, năm 1962, chùa đã được công nhận là Di tích lịch sử kiến ​​trúc nghệ thuật cấp Quốc gia và năm 2012 chùa Một Cột được tổ chức xác lập kỷ lục “Ngôi chùa có kiến ​​trúc độc đáo nhất châu Á”. Kỷ lục châu Á.

Chùa Một Cột được biết đến là ngôi chùa có kiến ​​trúc độc đáo bởi chùa Một Cột mang dáng dấp của bông hoa sen lớn vươn khỏi mặt nước, hình ảnh hoa sen gợi lên sự thanh khiết cao quý. ánh sáng tinh khiết. Toàn bộ không gian của chùa được đặt trên một cột đá cao 4 mét làm bằng hai khối đá có đường kính 1,2 mét dưới hồ Linh Chiểu. Ao bên dưới sân chùa được bao quanh bởi lan can bằng gạch men xanh có họa tiết hình khối. Mái chùa lợp ngói cổ theo hình đầu đao cong vút, trên đỉnh là hình tượng rồng thể hiện sức mạnh thần thánh và uy quyền uy nghiêm.

Chùa Một Cột đã trở thành một trong những biểu tượng quốc gia, một điểm tham quan du lịch nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Chùa không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan, thưởng ngoạn vẻ đẹp độc đáo, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Dinh Độc Lập

Thành phố Hồ Chí Minh là đầu cầu kinh tế của cả nước, luôn tráng lệ và nhộn nhịp với nhịp sống hối hả. Nằm giữa lòng thành phố vẫn còn đó những công trình kiến ​​trúc ghi dấu ấn lịch sử hào hùng, là nơi để người ta tưởng nhớ và biết ơn hơn về cuộc sống hiện tại. Một trong những di tích kiến ​​trúc quan trọng là Dinh Độc Lập, một tòa nhà đồ sộ khác, tọa lạc tại 106 Nguyễn Du, Quận Một.

Dinh Độc Lập mang nhiều tên gọi, mỗi tên gọi là một giai thoại lịch sử khác nhau. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn đã định xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ và đến năm 1868 thì hoàn thành và đặt tên là Dinh Norodom. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Ngô Đình Diệm đã lấy lại Dinh và đổi tên là Dinh Độc Lập, xây dựng lại Dinh mới hoành tráng và kiên cố hơn sau sự kiện Dinh bị phá bỏ bên cánh trái. Công trình hoàn thành vào mùa thu năm 1966, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Phan Văn Điển.

Dinh Độc Lập được bao quanh bởi cây cối xanh tươi. Phía trước tòa nhà chính là một khoảng sân rộng được thiết kế ấn tượng bởi thảm cỏ xanh mướt tạo thành một khối tròn, bao quanh là con đường vòng để có thể đi bộ từ hai bên khi bước vào cổng Dinh. Với vật liệu xây dựng chủ yếu trong nước, Dinh thự là một công trình đồ sộ do chính người Việt Nam xây dựng, chạm trổ, trang trí, thiết kế bố cục và sắp xếp nội thất. Dinh Độc Lập gồm ba tầng chính. Bước chân vào Dinh thự, người ta không chỉ ngạc nhiên bởi lối kiến ​​trúc hiện đại mà còn bởi những chi tiết tinh tế trong từng căn phòng. Tầng 1 bố trí các phòng: họp nội bộ, tiệc, lễ. Căn phòng lớn nhất với hai hàng ghế dài kê đối diện nhau là phòng tiếp khách, được trang trí hoa văn vô cùng sang trọng theo phong cách pha trộn giữa Tây và Đông Âu, dùng để tiếp khách. Phòng họp chật ních những chiếc ghế dựa lưng xung quanh chiếc bàn hình bầu dục, tạo nên một bầu không khí trang nghiêm, với những chiếc micro đặt sẵn trên bàn. Sảnh tiệc và các phòng khác cũng được trang trí rất công phu. Điều đặc biệt là dù ở căn phòng nào, các kiến ​​trúc sư cũng không quên sự hiện diện của cây cỏ, hoa lá, giúp không khí thêm mát mẻ và mang lại sức sống cho không gian. Tầng 2 là nơi làm việc của các nhà lãnh đạo cấp cao của đất nước. Những phòng lớn như phòng trình chiếu ủy nhiệm thư, nơi các đại sứ tại Sài Gòn trình ủy nhiệm thư lên Chủ tịch nước trước năm 1975. Phòng được thiết kế theo phong cách Nhật Bản với kỹ thuật sơn mài độc đáo… Ghế Chủ tịch có tay vịn. tựa lưng hình rồng và đặt cao hơn các ghế khác. Đối diện là ghế của khách. Các mặt ghế còn lại đều khắc hình “con nghê” hoặc chữ “thọ”. Phòng còn lại được trang trí bằng hai chiếc tủ sơn mài “mai lan”, “củ dưa” sản xuất năm 1966. Các phòng ở tầng 2 khi đó là phòng làm việc của Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước. Tầng 3 được thiết kế phóng khoáng hơn với mục đích giải trí, thư giãn và tích lũy kiến ​​thức. Bên ngoài đối diện với mặt trước của tòa nhà là bàn bi-a và một cây đàn piano khá lớn. Khu nhậu nhẹt tán gẫu nằm liền kề phòng chiếu phim và phòng phu nhân Tổng thống tiếp khách. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, sự xuất hiện của phòng chiếu phim là một bước tiến của sự hiện đại, bên cạnh màn đỏ tự động. Không gian nơi đặt phòng chiếu phim cũng là sân khấu biểu diễn văn nghệ, nghệ thuật. Những bức tranh trừu tượng cũng được đặt trong phòng tiếp khách của phu nhân Tổng thống, điểm khác biệt ở căn phòng này là những họa tiết nhẹ nhàng, nữ tính hơn so với những căn phòng khác. Bên cạnh là thư viện đầy ắp sách thuộc nhiều thể loại như sách giáo dục, sách chính trị, thống kê được xếp ngay ngắn vào tủ gỗ có mặt kính để bảo quản sách. Khu vực sân thượng là nơi có không gian rộng lớn hài hòa với thiên nhiên. Có chiếc trực thăng nằm một góc sân thượng vẫn còn đó, dưới nắng Sài Gòn trông khác quá.

Và còn rất nhiều phòng khách ở Dinh Độc Lập đang chờ được vào thăm và chiêm ngưỡng. Những căn hầm bí mật nơi lắp máy điều hòa, quạt thông gió, nơi đặt các thiết bị tối tân. Những chiếc đèn chùm lung linh xuất hiện trên nền đá hoa cương bóng loáng. Những thiết kế đặc biệt của từng góc của Dinh Độc Lập vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.

Dinh Độc Lập không chỉ là công trình kiến ​​trúc độc đáo mà còn là minh chứng, nhân chứng lịch sử. Đình đã cùng đất nước và nhân dân trải qua bao thăng trầm của lịch sử Việt Nam. Chính sự kiên cường của Dinh đã để lại cho con cháu những bài học quý giá về lòng yêu nước và sự kiên cường trong cuộc sống.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Hồ Tây

Hồ Tây là một hồ nước tự nhiên nằm ở phía Tây Bắc nội thành Hà Nội với diện tích khoảng 500ha, có đường quanh hồ dài gần 20km. Lịch sử địa lý đã chứng minh Hồ Tây là một hồ ngoại sinh có dạng lòng chảo, là một đoạn của sông Hồng cũ đang trong quá trình ngưng trệ sau khi sông đổi dòng. Hồ Tây xưa kia còn có tên gọi khác là Đầm Sác Cao, Kim Ngưu hồ, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ. Mỗi cái tên đều gắn liền với truyền thuyết về nguồn gốc của Hồ Tây huyền thoại.

Sách Tây Hồ Chí chép rằng Hồ Tây có từ thời Hùng Vương, khi ấy nơi đây là bến giáp sông Hồng ở động Lâm Ấp, nên gọi là bến Lâm Ấp ở thôn Long Đỗ. Thời Hai Bà Trưng, ​​bến này thông với sông Hồng, xung quanh là rừng nhiều loại thực vật chủ yếu như tre, ngà, cò quăm, lau sậy, gỗ tầm và một số loài động vật quý hiếm.

Phía Tây Hồ Tây ngày nay vẫn còn dấu vết của nhiều làng cổ. Mỗi ngôi làng ở đây đều ít nhiều gắn với một truyền thuyết lịch sử. Làng Nghi Tàm, quê hương của nhà thơ “Bà huyện Thanh Quan”. Làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng. Làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ ông tổ nghề dệt. Làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh. Làng Nhật Tân với vườn đào nổi tiếng. Có một nơi mà nhiều du khách muốn đến thăm là chùa Trấn Quốc. Chùa Trấn Quốc tọa lạc trên một bán đảo nhỏ giữa mênh mông sóng nước ngay sát đường Thanh Niên, con đường tuyệt đẹp ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, có từ thế kỷ thứ 6 dưới thời Lý Nam Đế. Hòa thượng Thích Thanh Nhã, trụ trì chùa Trấn Quốc, cho biết: “Năm 541-548, chùa vốn có tên là chùa Khai Quốc, chùa được xây dựng bên bờ sông Hồng, vào thời Hậu Lê (thế kỷ 17) sau này. .di chuyển về đây.Ngày xưa nơi đây được gọi là bãi cá vàng nhưng các vua chúa ngày xưa đã du ngoạn suối nước rồi các cao tăng về đây tu hành.Chùa đến nay đã có lịch sử 1440 năm.dân cư ở đây rất thưa thớt, họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng cây, bên bờ đông có Nha Lâm Động (nay là phố Yên Ninh và Hòe Nhai), bờ nam có Bình Sa Động (đường Yên Ninh, Hòe Nhai). Thời Lý đổi là Giáp Cơ Xã (nay thuộc quận Hoàn Kiếm).

Tại thủ đô Hà Nội, Hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích dày đặc. Chỉ tính riêng khu vực xung quanh Hồ Tây hiện có hơn 20 đình, đền, chùa được xếp hạng di tích với nhiều danh thắng. Mỗi độ xuân về, các di tích này thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, vãn cảnh chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, Hồ Tây gần như bao trùm không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, công trình kiến ​​trúc nghệ thuật, gắn liền với lịch sử ngàn năm của thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách đến đây khám phá Hồ Tây. Với nhiều du khách, thú vị nhất là được tham quan Hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Anh Nguyễn Quang Lộc, ngụ quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói Hồ Tây rộng chứ chưa đi hết. Nhưng giờ đi xe điện quanh hồ, tôi biết thêm nhiều điều, hiểu hơn về các làng nghề, các di tích, đình, chùa quanh Hồ Tây”.

Tại thủ đô Hà Nội, Hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích dày đặc. Chỉ tính riêng khu vực xung quanh Hồ Tây hiện có hơn 20 đình, đền, chùa được xếp hạng di tích với nhiều danh thắng. Mỗi độ xuân về, các di tích này thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, vãn cảnh chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, Hồ Tây gần như bao trùm không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, công trình kiến ​​trúc nghệ thuật, gắn liền với lịch sử ngàn năm của thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách đến đây khám phá Hồ Tây. Với nhiều du khách, thú vị nhất là được tham quan Hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Anh Nguyễn Quang Lộc, ngụ quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói Hồ Tây rộng chứ chưa đi hết. Nhưng giờ đi xe điện quanh hồ, tôi biết thêm nhiều điều, hiểu hơn về các làng nghề, các di tích, đình, chùa quanh Hồ Tây”.

Ngày nay, Hồ Tây vẫn là lá phổi xanh của thành phố. Hồ Tây không chỉ đẹp bởi làn nước trong xanh mênh mông mà còn có vẻ đẹp thơ mộng của sắc tím của hoa bằng lăng, sự rực rỡ của những cánh phượng hồng mỗi độ hè về. Mặt nước hồ lúc nào cũng loang loáng những làn gió mát rượi làm tâm hồn con người thêm thư thái. Với không gian như vậy, Hồ Tây thực sự là điểm đến thư giãn của nhiều người dân Hà Nội.

Từ rừng rậm, đầm lầy hoang hóa, qua sự dày công xây dựng của nhiều thế hệ, trong đó có sự đóng góp to lớn của một số triều đại, Hồ Tây đã trở thành một thắng cảnh văn hóa – du lịch nổi tiếng của kinh thành Thăng Long – Hà Nội. Vì vậy chúng ta hãy cùng nhau bảo tồn và phát triển cảnh quan này.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Hồ Gươm

Hà Nội! Không chỉ là thủ đô của Việt Nam. Không chỉ là trung tâm chính trị của đất nước. Là địa danh lịch sử gắn với bao cuộc chiến tranh mất mát, gắn với những dấu mốc không thể phai mờ. Nhắc đến Hà Nội, người Hà Nội luôn có hình ảnh đẹp trong mắt mỗi người Việt Nam. Những địa danh, hình ảnh, địa điểm ở Thăng Long mà ai cũng muốn đến thăm và đến. Trong đó có Hồ Gươm.

Hồ Gươm không chỉ là một danh lam thắng cảnh đẹp của Hà Nội, nó còn là một di tích lịch sử của nước ta. Trước hết, hồ Hoàn Kiếm gắn liền với truyền thuyết Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn và vị thần Kim Quy đã giúp nước ta thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh xâm lược. Truyền thuyết về sự tích rùa thần trả gươm của Lê Lợi đã làm nên cái tên “Hồ Gươm” hay “Hoàn Kiếm” ngày nay thay cho cái tên “Hồ Lục Thủy” ngày xưa. Trên hồ có hai đảo là đảo Ngọc và đảo Rùa. Đầu thế kỷ 19, người dân đã xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc với tên gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít lâu sau, đền không thờ Phật mà thờ Đức Thánh Văn Xương và Trần Hưng Đạo nên đổi tên là đền Ngọc Sơn. Năm 1864, trên gò Ngọc Bội đối diện với đảo Ngọc, Tháp Bút được xây dựng.

Hồ Gươm là một hồ nước ngọt tự nhiên ở Hà Nội. Với diện tích 12 ha, nước hồ trong xanh quanh năm. Hồ nằm ở điểm nối giữa khu phố cổ gồm các phố: Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ… với các khu phố Tây do người Pháp quy hoạch như: Tràng Thi, Bảo Khánh, Nhà Thờ, Đinh Tiên Hoàng , và Tràng Tiền. , Hàng Khay, Bà Triệu… Đến thăm Hồ Hoàn Kiếm không thể không bắt gặp hình ảnh tượng trưng của nó. Đó là Tháp Rùa. Tháp Rùa được xây dựng giữa lòng hồ chịu ảnh hưởng của những nét kiến ​​trúc Pháp. Tháp hình chữ nhật, có bốn tầng. Kiến trúc của mỗi tầng khá giống nhau. Mặt dựng có cửa thuôn nhọn. Tháp Rùa được coi là một công trình kiến ​​trúc mang tính lịch sử, thiêng liêng đối với không chỉ người dân Hà Nội mà còn cả người dân Việt Nam. Đặc biệt, đến với hồ Hoàn Kiếm, hầu như ai cũng dành chút thời gian để bước lên cây cầu Thê Húc sơn son thếp dẫn vào đền Ngọc Sơn. Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một thể kiến ​​trúc Thiên – Nhân thống nhất, tạo nên vẻ đẹp cổ kính, hài hòa cho đền và hồ, gợi cảm xúc hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Ngoài ra, hồ Hoàn Kiếm còn gắn liền với các địa danh khác như Tháp Bút, Đài Nghiên, đền vua Lê.

Hồ Gươm đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử với thời gian. Nhiều vị vua trị vì đã đến đây để thực hiện các nghi lễ long trọng. Cũng chính vì giá trị lịch sử đối với Hà Nội và cả đất nước Việt Nam mà hồ Hoàn Kiếm đã trở thành điểm đến của rất nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến thủ đô. Không ai có thể phủ nhận giá trị kiến ​​trúc cũng như giá trị lịch sử của Hồ Gươm.

Với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là điểm dừng chân, ngắm cảnh hữu tình hay hóng gió. Hồ Gươm đã cùng người dân Hà Nội trải qua bao thời kỳ thay đổi, chuyển mình của đất nước. Nó mang một giá trị tinh thần to lớn đối với người dân Hà Nội. Nó như một người bạn, một người tri kỷ, một nhân chứng lịch sử quan trọng của người Hà Nội. Cũng giống như cầu Long Biên hay bất cứ địa danh nào của Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm là dấu ấn riêng của Hà Nội mỗi khi nhớ về. Không chỉ vậy, hồ Hoàn Kiếm còn có vị trí địa lý vô cùng quan trọng đối với Hà Nội. Nằm ở trung tâm Hà Nội, việc kết nối các khu vực lân cận quan trọng với nhau đã khiến hồ Hoàn Kiếm càng trở nên quan trọng hơn đối với thủ đô sôi động và thịnh vượng này.

Vì vậy, các sự kiện quan trọng của đất nước thường được tổ chức và diễn ra tại đây. Chưa hết do nước hồ trong xanh nên tạo cảm giác nhẹ nhàng, dễ chịu khi hè về. Ai cũng biết cái nóng của Hà Nội. Nhưng khi dừng chân bên bờ hồ Hoàn Kiếm, mọi ánh nắng đều không thể làm mất đi sự mát mẻ, dễ chịu nơi đây. Đây cũng là lý do mỗi khi hè về, xung quanh hồ Hoàn Kiếm thường đông nghịt người. Ngày nay, hồ Hoàn Kiếm còn là điểm đến lý tưởng của giới trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên. Bởi lẽ, nơi đây tập trung rất nhiều du khách nước ngoài. Vì vậy, các bạn sinh viên năng động ngày nay thường đến đây để nâng cao khả năng giao tiếp với người nước ngoài.

Tóm lại, hồ Hoàn Kiếm vừa là danh lam thắng cảnh, vừa là di tích lịch sử, vừa là dấu ấn như người bạn tri kỉ của Hà Nội và người Hà Nội. Hơn hết, hồ Hoàn Kiếm còn là một địa điểm du lịch, nơi nghỉ ngơi, vui chơi và học tập. Hãy đến với hồ Hoàn Kiếm, bạn sẽ cảm nhận được tất cả những gì tôi nói. Hồ Gươm – chốn tuyệt vời giữa lòng Hà Nội.

Mô tả danh lam thắng cảnh Bến Ninh Kiều – Cần Thơ

Khúc nhạc tang thương đưa ta về với nước Nam, nơi có những cảnh thiên nhiên làm nao lòng biết bao khách nhân. Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, giữa mạng lưới sông rạch chằng chịt.

“Cần Thơ gạo trắng nước trong Ai đi đến đây cũng không nỡ quay lại”.

Cần Thơ giáp 6 tỉnh: Bắc An Giang và Đồng Tháp, Nam giáp Sóc Trăng và Bạc Liêu, Tây giáp Kiên Giang, Đông giáp Vĩnh Long. Cần Thơ có nhiều hệ thống sông rạch như sông Hậu, sông Cần Thơ, sông Cái Tư, sông Cái Sắn, kênh Quản Lộ, kênh Phụng Hiệp, kênh Xà No. Các tuyến đường lớn chạy qua tỉnh là Quốc lộ 1A, Quốc lộ 80, Quốc lộ 91. Cần Thơ là trung tâm giao thông đường bộ của cả vùng Nam Bộ, nối liền với Campuchia, có cảng khá lớn tiếp nhận tàu 5000 tấn. Sân bay Trà Nóc nằm bên bờ sông Hậu. Từ xa xưa, Cần Thơ được coi là trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ, nay là một trong những tỉnh sản xuất và xuất khẩu lúa gạo chủ lực của cả nước. Với đất đai màu mỡ, ngoài thế mạnh lúa gạo và cây ăn trái các loại, Cần Thơ còn có nguồn thủy hải sản phong phú, chủ yếu là tôm cá nước ngọt (hơn 5.000ha ao nuôi tôm cá nước ngọt) và chăn nuôi gia súc. chăn nuôi lợn, gà, vịt. Các ngành công nghiệp hiện có chủ yếu là điện (Nhà máy điện Trà Nóc: 33000kw), cơ điện, điện tử, hóa chất, may mặc, da giày và chế biến nông thủy sản… là thế mạnh của tỉnh.

Mảnh đất ấy là của những con người hào hiệp, của những giai nhân, tài tử Cần Thơ. Họ luôn hãnh diện và tự hào khi nhắc đến bến Ninh Kiều:

“Cần Thơ có bến Ninh Kiều” Có một dòng sông đẹp với nhiều người đẹp.”

Xưa bến Ninh Kiều là bến sông đầu chợ Cần Thơ. Ngày ấy, khi Ninh Kiều tấp nập tàu thuyền qua lại, hàng dương chắn gió ven bờ đã trở thành tên bến sông: bến Hàng Dương. Giao thương ngày càng phát đạt nên bến Hàng Dương cũng được mở rộng, sửa chữa, dần trở thành thắng cảnh của đất Tây Đô. Sau năm 1958, bến này chính thức có tên là bến Ninh Kiều. Theo dân gian, xưa kia, ở Ninh Kiều vào những đêm trăng, ghe thuyền tấp nập, tài tử giai nhân cùng nhau ngâm thơ nên bến này còn có tên gọi là bến Cầm Thi. , rồi sau khi hạ trại là đến thành Cần Thơ, tức là tên vùng đất Cần Thơ xưa. Hiện nay, Ninh Kiều là quận trung tâm của thành phố Cần Thơ. Theo Nghị định số 05/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2004 của Chính phủ, quận Ninh Kiều được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của hầu hết các phường nội thành của thành phố Cần Thơ. Cần Thơ cũ bao gồm Cái Khế, An Hòa, Thới Bình, An Nghiệp, An Cư, An Hội, Tân An, An Lạc, An Phú, Xuân Khánh, Hưng Lợi và xã An Bình (thuộc TP Cần Thơ cũ). Quận Ninh Kiều có gần 3 nghìn ha diện tích tự nhiên (2.922,04 ha) và 206.213 nhân khẩu (năm 2004).

Người Cần Thơ luôn tự hào về bến Ninh Kiều, nơi bến sông nhìn ra dòng Hậu Giang hiền hòa, thơ mộng. Bến Ninh Kiều là địa điểm thường được du khách tìm đến, nằm bên hữu ngạn sông Hậu, nơi ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ, gần trung tâm thành phố Cần Thơ. Trên bờ sông luôn tấp nập thuyền bè, chở đầy những sản vật của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cạnh bến Ninh Kiều là cảng Cần Thơ, cảng này được xây dựng hiện đại có khả năng tiếp nhận 5.000 tấn, gần bến Ninh Kiều có chợ Cần Thơ, trung tâm buôn bán lớn của miền Tây Nam Bộ. Thời gian đã đổi thay khôn lường như dòng sông Hậu hiền hòa chảy xuôi. Bến Ninh Kiều giờ đây là niềm tự hào của người dân Cần Thơ, đây không chỉ là nơi thương khách tìm đến mà còn là nơi bao khách nhân bao lần luyến tiếc bến Hàng Dương:

“Đất Châu Thành tôi ở Đất Cần Thơ em về Sau một thời gian, sông cạn và biển Chẻ tay tre, chùm đời”

Không ngoa khi nói rằng Ninh Kiều là vựa trái cây, bởi cạnh bến sông là nơi hội tụ của những trái ngon vật lạ của Nam Bộ như xoài tượng, xoài Thanh ca, xoài Cao Lãnh… tập hợp. , vú sữa trắng, quýt đường Cần Thơ, măng cụt, sầu riêng hay bưởi da xanh Biên Hòa, mít tố nữ Bà Rịa – Vũng Tàu, nhãn Bạc Liêu, cam mật Sa Đéc… Cần Thơ hôm nay có nhiều đổi thay, là một vùng đất năng động, trẻ trung thành phố Tây Đô, cái tên đáng tự hào của thành phố Cần Thơ, nay nằm trong khu công nghiệp, bến Ninh Kiều vẫn chung một ánh ban mai, vui buồn hay âu lo mỗi ngày. gian lao… từ đó lời ca tiếng hát vẫn cứ trỗi lên từng ngày:

“Cần Thơ ngày tôi đến Mưa nhẹ trên phố sông Con đường thênh thang lộng gió Tự hỏi ai biết?

Cần Thơ khi em đi vắng Nước mắt ai rơi? Bạn có biết tôi đang chờ đợi Cho dù một khi mọi người vượt qua?

Ai đi Cần Thơ? Tôi có thể hỏi khi nào không? Bước chân yêu nhau Nằm mơ trên Ninh Kiều?

Tả danh lam thắng cảnh – Tả chùa Dâu ở Bắc Ninh

Bắc Ninh là vùng đất cổ, nổi tiếng với những làn điệu quan họ ngọt ngào, tha thiết; di tích chùa, đình, miếu, phủ vào loại nhiều nhất cả nước. Bên cạnh chùa Phật Tích, một trong những di tích cổ nhất, có ý nghĩa sâu sắc nhất đối với đời sống tâm linh của người dân Bắc Ninh là chùa Dâu, một ngôi chùa cổ kính Phật giáo từ xa xưa đã rất nổi tiếng. cho đến ngày nay trên mảnh đất này.

Chùa Dâu còn có tên là chùa Cả, Cổ Châu Tự, Diên Ứng Tự. Đây là nơi hình thành và phát triển sớm nhất của Phật giáo Việt Nam. Chùa Dâu là một trong những danh thắng nổi tiếng nhất của kinh kỳ Bắc, gắn liền với sự tích chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.

Chùa Dâu được xây dựng vào đầu công nguyên (khoảng năm 187 và hoàn thành năm 226) Đây là ngôi chùa cổ nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam. Từ thuở sơ khai cho đến nay chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo do sự tàn phá của thời gian và chiến tranh.

Sự phát triển mạnh mẽ của hệ phái Nam tông từ Ấn Độ, kết hợp với ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, đã khiến chùa Dâu trở thành trung tâm của hệ phái Vinida-luchi, nơi đặt trụ trì. Nhiều nhà sư Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc đến nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch kinh Phật và đào tạo tăng ni. Một thời, nơi đây được coi là trung tâm Phật giáo của nước ta.

Cũng như nhiều ngôi chùa ở Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà hình chữ nhật nối nhau bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.

Ở tiền đường chùa Dâu có tượng Hộ Pháp tám Kim Cương; Lư hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng Diêm Vương, Tam Châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện đặt tượng Bà Đầu (Pháp Vân), Bà Đầu (Pháp Vũ) và các người hầu. Các tượng Bồ tát, Tam thế, Tăng, Ni được đặt ở hậu điện phía sau chánh điện.

Chính giữa chùa có tượng Bà Đầu, tức nữ thần Pháp Vân, uy nghi, tĩnh lặng, màu đồng, cao gần 2m, được trưng bày ở chính giữa. Tượng có khuôn mặt đẹp với nốt ruồi đen lớn ở giữa trán gợi nhớ đến những vũ công Ấn Độ đến với quê hương Tây Trúc. Hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là hộp gỗ, trong đó Thạch Quang Phát là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.

Bên trái thượng điện có tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người sáng lập thiền phái Việt Nam, từng đến chùa này tu thiền. Tượng được đặt trên giá gỗ hình sư tử đội hoa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.

Giữa sân chùa trải rộng là tháp Hòa Phong. Tháp ngày xưa được xây bằng gạch to, nung thủ công cho đến khi nồi sành có màu sẫm. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên cùng của tháp, giờ đây chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17m nhưng vẫn sừng sững uy nghi, vững chãi qua hàng ngàn năm. Mặt trước của tầng 2 có tấm bảng đá khắc chữ “Tháp Hòa Phong”. Đế tháp hình vuông, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm.

Trong tháp treo quả chuông đồng đúc năm 1793 và quả chuông đồng đúc năm 1817. Bốn góc có 4 pho tượng Thiên Vương cao 1,6m. Trước tháp, bên phải là tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái là tượng con cừu bằng đá dài 1,33m, cao 0,8m. Bức tượng này là dấu tích duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.

Sự phát triển của chùa Dâu còn gắn liền với truyền thuyết về Phật Bà Man Nương, tạo nên nét độc đáo, thể hiện sự hòa quyện chặt chẽ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người dân Bắc Ninh. Mỗi lễ hội hàng năm với sự tái hiện các câu chuyện về Tứ Pháp Man Nương. Lễ hội chùa Dâu đã thể hiện sự sùng bái tín ngưỡng phồn thực lâu đời của cư dân vùng lúa nước. Lễ hội được tổ chức với những nghi thức long trọng, trang nghiêm theo phong tục cổ truyền để kỷ niệm ngày Đức Phật mẫu Man Nương hạ sinh con gái. Phần hội có nhiều nghi lễ dân gian và các trò diễn phong phú, hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách thập phương, tín đồ, tăng ni, phật tử về chiêm bái, dâng hương và dự hội.

Trải qua hàng nghìn năm, phần “lễ hội” trong lễ hội đã ít nhiều bị mai một. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp đích thực và những giá trị văn hóa truyền thống phản ánh đời sống tôn giáo đa dạng và phong cách sáng tạo. Sự giàu có của người xưa vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Di tích lịch sử chùa Dâu từ bao đời nay đã đi vào đời sống nhân dân. Tuy ngày nay, di tích chùa Dâu không còn như xưa nhưng ý nghĩa và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên trong lòng người dân:

Bất kể ai bán hay bán, Hễ thấy tháp chùa Dâu là tôi lại về. Ai buôn trăm nghề, Nhớ ngày mồng tám đi hội Dâu.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về chùa Tam Chúc

Khu du lịch Tam Chúc (Ba Sao Hà Nam) được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long trên cạn”, nơi khoác lên mình vẻ đẹp bao la, đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh, đến đây du khách sẽ cảm nhận được sự trong lành, thanh thản. bình lặng và yên bình lạ thường.

Khu du lịch Tam Chúc tọa lạc trên mảnh đất Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. Nơi đây đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là khu du lịch quốc gia theo Quyết định số 201/QĐ-TTG ngày 22/01/2013. Đặc biệt, chùa Tam Chúc sẽ là nơi đăng cai tổ chức Đại lễ Vesak 2019 (Đại hội Phật giáo thế giới) được tổ chức vào tháng 5 năm 2019 và cũng là thời điểm Chùa khánh thành giai đoạn I.

Chùa Tam Chúc có tổng diện tích gần 5.000 ha, trong đó hồ: 1.000 ha, núi đá tự nhiên: 3.000 ha, thung lũng: 1.000 ha. Đây là một ngôi chùa rất đặc biệt với phong cảnh hùng vĩ: Tiền lục nhãn, hậu thất tinh (phía trước chùa có nghĩa là 6 ngọn núi giữa hồ, tương truyền đây là 6 quả chuông do Thượng đế giáng xuống; phía sau bảy ngôi sao là 7 ngọn núi phát sáng khi có ánh sáng vào ban đêm).

Ngôi đền được xây dựng bởi nhiều thợ thủ công lành nghề của Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Năm 2000, khi khảo sát phục vụ tưới tiêu lòng hồ Tam Chúc, những người thợ thi công đã phát hiện nhiều dấu tích hiện vật liên quan đến chùa Tam Chúc xưa. Từ những hiện vật khảo cổ, bước đầu có thể kết luận chùa Tam Chúc đã hơn 1000 năm tuổi.

Sau nhiều năm, nay chỉ còn lại dấu tích cột gỗ, cột đá, xà đá nằm dưới nền cũ bị vùi lấp, trong đó có những cột gỗ có đường kính hơn 1m, xà, cột đá rất lớn. nhưng chúng tôi không thể hiểu làm thế nào mà tổ tiên của chúng tôi xây dựng ngôi chùa với quy mô lớn như vậy.

Ngôi chùa Tam Chúc được xây dựng lại có tới 12.000 bức tranh đá mô tả các sự tích về Đức Phật, được người Indonesia theo đạo Hồi khắc trên đá núi lửa ở Indonesia rồi đưa sang Việt Nam.

Chùa Tam Chúc đang lập vườn cột khổng lồ với 1.000 cột đá, mỗi cột cao 12m, nặng 200 tấn. Hiện nay, có khoảng 36 bộ kinh được các nghệ nhân lành nghề của Việt Nam chạm khắc và dựng tượng. Đây sẽ là khu vườn cây cột lớn nhất thế giới khi hoàn thành.

Trên trục tôn giáo Chùa Tam Chúc bao gồm: Chùa Ngọc, Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, Điện Quan m, Cổng Tam Quan, Phòng họp Quốc tế. Các điện thờ và tượng Phật ở chùa Tam Chúc có diện tích và quy mô rất lớn.

Chùa Ngọc nằm trên đỉnh núi Thất Tinh đang được các nghệ nhân Ấn Độ giáo xây dựng và sẽ sớm hoàn thành vào năm 2018.

Điện Tam Thế có chiều cao 39m, diện tích sàn 5.400m², cho phép 5.000 Phật tử hành lễ cùng lúc. Bên dưới điện Tam Thế là điện Pháp Chủ với pho tượng bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn.

Phòng họp Quốc tế nổi trên hồ, diện tích sàn 10.000m², sức chứa 3.500 chỗ ngồi và Cổng Tam Quan đang được xây dựng. Người ta ước tính thời gian hoàn thành khu đền là vào năm 2048. Từ lúc khởi công đến khi hoàn thành là 50 năm.

Quần thể khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao thực sự là điểm đến tâm linh hấp dẫn, bởi nơi đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp cổ kính của chùa ngàn năm tuổi với sự hùng vĩ của non nước bao la. . Đặc biệt, bầu không khí trong lành cùng tiếng chim hót líu lo giữa núi rừng bao la là điều mà bất kỳ du khách nào cũng không thể nào quên khi đặt chân đến vùng đất này.

Hiện hệ thống giao thông kết nối giữa Hà Nội và Hà Nam vô cùng thuận tiện. Chùa Tam Chúc cách chùa Bái Đính 30km và chùa Hương 4,5km, tạo thành quần thể “Tam giác vàng” du lịch tâm linh, nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của du khách trong và ngoài nước. Với mục tiêu quản lý, khai thác hiệu quả các giá trị cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn và bảo tồn cảnh quan, môi trường sinh thái bền vững, trong tương lai không xa, Khu du lịch Tam Chúc sẽ là điểm nhấn và kỳ vọng tạo bước đột phá trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội cho tỉnh Hà Nam.

Tham Khảo Thêm:  ✓ Bài 1 trang 63 Toán 7 tập 2 SGK Cánh Diều

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về chùa Tây Phương

Nhắc đến Hà Nội, người ta thường nghĩ đến những danh lam thắng cảnh nổi tiếng nơi đây như: Văn Miếu, Hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc… và chắc hẳn không ai không nhắc đến chùa. linh thiêng nhất, được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đó là chùa Tây Phương.

Chùa Tây Phương thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Tương truyền, ngôi chùa được xây dựng vào thế kỷ thứ 6. Người xưa kể lại rằng vào những năm 324 – 326 niên hiệu Hàm Hòa nhà Đông Tấn, Cát làm quan ở Giao Châu nghe nói Chu Sa Đồ tồn tại trên núi Cát Lưu bèn muốn tìm về để lập công. nó thành thuốc trường sinh. Cùng với nhân dân, họ lập một ngôi đền nhỏ để thờ phụng. Trải qua chiến tranh và sự bào mòn của thời gian, ngôi chùa đã bị hư hại nặng nề. Năm 1794 thời Tây Sơn, chùa được trùng tu lớn lấy tên là chùa Tây Phương, hiệu là Sùng Phúc Tự. Người ta gọi là chùa Tây.

Chùa Tây Phương tọa lạc trên đỉnh núi Câu Lâu (núi Tây Phương) cao khoảng 50m. Núi Câu Lừa được ví như đàn trâu quay đầu xuống sông Tích uống nước. Vì ở đây có 9 ngọn núi nhìn từ xa trông như một đàn trâu. Qua cổng Tam Quan phải trải qua 237 bậc thang làm bằng đá ong mới lên được chùa. Chùa được xây dựng theo mặt bằng kiến ​​trúc chữ tam; có 3 tòa song song: Hạ – Trung – Thượng; Tường bao quanh chùa được xây kín, tạo thành một cấu trúc cong. Kiến trúc chùa đã trở thành đặc trưng của các ngôi chùa ở Bắc Bộ với hai tầng mái ẩn, lợp ngói mũi, các góc mái cong, bên trên gắn tứ linh (tứ linh). Chùa có 64 pho tượng, phần lớn bằng gỗ mít. Trong đó có 18 tượng La Hán và kiến ​​trúc độc đáo nhất là tượng Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay. Cửa sổ trong chùa được chạm trổ hình tròn mang ý nghĩa “sắc không trống”. Bên trong có mái che, các rui mè có ô vuông trang trí màu sắc mô phỏng áo Ca Sa của Đức Phật. Chùa có quả chuông nặng tới 200kg. Nhờ những nét nghệ thuật độc đáo đó, ngày 24 tháng 4 năm 1962, chùa Tây Phương đã được công nhận và xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.

Những bức tượng Phật ở đây được đánh giá rất cao. Đây là những kiệt tác xuất sắc của các nghệ sĩ cổ đại. Viết về các vị La Hán ở chùa Tây Phương, Huy Cận có bài thơ rất nổi tiếng:

“Đây là mùi vị của tay chân không xương Một cái gì đó đốt cháy một cơ thể mỏng manh Hãy thiền định về sự đau khổ sâu thẳm trong đôi mắt của bạn Từ lúc đó ngồi y cho đến nay. Có sở thích ngước mắt, nhíu mày Trán như sóng biển luân hồi Môi đắng, hồn héo Gân tay có mạch máu sôi trào. Có một hương vị của các chi gấp Tròn từ cơ thể của một bào thai trẻ Nhưng đôi tai rộng dài đến đầu gối Cả đời tôi đã nghe đủ chuyện buồn rồi…”

Hình tượng La Hán trong bài thơ rất mới. Khi đọc bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy Cận, một nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Các nhà thơ vẽ hình vẽ bên ngoài chủ yếu để diễn tả nội tâm của các vị A la hán. , mà còn là nội tâm đau đớn, quằn quại, vật vã, đầy đau khổ, của con người trên trần gian…”. Những bức tượng là hiện thân của cuộc sống nghèo khổ, cơ cực mà nhân dân ta phải chịu đựng vào thế kỷ 18. Tượng Phật nghìn mắt nghìn tay là nghệ thuật độc đáo nhất, là Đức Phật của lòng đại từ bi, luôn quan tâm, lắng nghe nỗi khổ của chúng sinh để rồi hiện ra phép lạ cứu giúp.

Là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, chùa Tây được rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan. Đặc biệt vào những ngày Tết hay lễ hội vào tháng 3 âm lịch hàng năm, rất đông người dân và du khách chen lấn nhau lên chùa tạo nên không khí náo nhiệt, khung cảnh nhộn nhịp, đông vui, tấp nập. bận. Du khách đến đây chủ yếu để cầu bình an cho gia đình và tham quan danh lam thắng cảnh của ngôi chùa. Chùa Tây Phương trở thành nơi phát triển kinh tế của người dân địa phương, là niềm tự hào của dân tộc ta. Tôi tin rằng ngôi chùa này sẽ ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước.

Tự hào khi có một cảnh quan tuyệt vời như vậy ở đây. Hãy cùng nhau bảo vệ và gìn giữ những nét đẹp văn hóa điêu khắc độc đáo của quê hương mình.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về chùa Yên Tử

Là một thắng cảnh thiên nhiên, núi Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh “đất tổ Phật giáo Việt Nam”. Núi Yên Tử là một ngọn núi thuộc dãy cánh cung Đông Triều thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên còn được gọi là Bạch Vân Sơn, núi rừng Yên Tử nổi tiếng với phong cảnh kỳ vĩ và được mệnh danh là một trong những danh lam thắng cảnh đẹp nhất Việt Nam. Trên đỉnh non thiêng Yên Tử còn có khu di tích lịch sử với những ngôi chùa tháp cổ kính và rừng cổ thụ. Đỉnh Yên Tử cũng trở thành trung tâm Phật giáo kể từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, đi tu và sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Cách đây 700 năm, sau chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông, vị vua anh hùng Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con để lên Yên Tử tu hành, nghiên cứu giáo lý nhà Phật, gắn với triết lý nhân sinh dân tộc để hình thành và sáng lập Trúc Lâm. Thiền phái với tư tưởng “nhập thế”, “tu tại tâm”, nơi đạo không tách rời đời. Đạo phải được trải nghiệm trong cuộc sống. Có thể nói, dòng thiền là sự hòa hợp tuyệt vời giữa tinh thần dân tộc và tôn giáo, giữa tư tưởng và đạo đức, giữa đạo và đời. Ngày nay, những tư tưởng này đã được truyền bá rộng rãi với nhiều trung tâm Thiền phái Trúc Lâm trong và ngoài nước, thu hút không chỉ người Việt Nam mà cả nhiều người nước ngoài quan tâm đến học tập và tu tập.

Hành trình thăm Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với cây cầu đá xanh nối hai bờ suối. Cầu dài 10m, có kiến ​​trúc hài hòa với khung cảnh thiên nhiên xung quanh, không cầu kì bay bổng nhưng lại toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi. Tiếp đến, đến chùa Hoa Yên với những hàng tùng cổ thụ được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông đi tu trên Yên Tử. Chùa Hoa Yên tọa lạc ở độ cao 543m so với mực nước biển, được xây mới hoàn toàn thay cho ngôi chùa cũ cách đây 30 năm. Ngôi chùa mới mang phong cách kiến ​​trúc thời Trần – Lê, kiểu “nội công ngoại quốc”, xung quanh có nhà ngang, dãy dọc phục vụ hành lễ và nơi ở của sư trụ trì và tăng ni. Trước chùa có tam quan, một bảo tháp, chính giữa là tam bảo, hành lang, lầu chuông trống, cuối cùng là nhà tổ, lợp ngói mũi hài, lót gạch bò hoa chanh. mái nhà. Trên độ cao 700m so với mực nước biển là chùa Vân Tiêu ẩn hiện trong mây bên sườn núi.

Chùa Đồng là điểm dừng chân cao nhất của du khách. Chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê với tên gọi là “Thiên Trúc Tự”. Chùa Đồng được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất cao 3m, rộng 12m2, nặng 60 tấn. Từ năm 2010, tại khu vực chùa Đồng đã khởi công xây dựng và khánh thành tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông ngồi trên bệ bằng bê tông cốt thép, ốp đá điêu khắc. Tượng cao hơn 3m, đài sen hơn 2m, tượng đồng cao 9,9m, được xây dựng trên khu đất rộng 2.200m2, bao gồm khu đặt tượng, sân hành lễ, không gian An vị. tượng Kỳ Sinh, bãi tập kết và các công trình công cộng. chương trình khác.

Dọc đường còn có một số điểm tham quan như: tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử được xây dựng trên dấu tích của ngôi chùa Lân mà Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã từng thuyết pháp cho chúng sinh. Đây là thiền viện lớn nhất cả nước với cổng Tam quan, chánh điện, nhà thờ Tam tổ, lầu trống, lầu chuông, nhà trưng bày, nhà khách, thiền phòng với kiến ​​trúc đẹp và uy nghiêm. Làm cho chốn non thiêng Yên Tử thêm khang trang, bề thế, góp phần lưu giữ, nghiên cứu cổ thư, ấn phẩm văn hóa Phật giáo Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng ni, phật tử Trúc Lâm trong cả nước đến tham quan. giảng dạy và thực hành thiền định.

Đường lên chùa Đồng khá cheo leo, khó đi, trước đây du khách phải mất 5-6 tiếng mới đến được. Những năm gần đây, chùa Yên Tử được các cấp, các ngành quan tâm, Ban quản lý khu di tích đã đầu tư xây dựng hệ thống cáp treo với 2 nhà ga. Trạm thứ nhất dài hơn 1,2km lên đến độ cao 450m gần chùa Hoa Yên và trạm thứ hai từ chùa Hoa Yên lên đến gần chùa Đồng. Với hệ thống cáp treo này, du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh núi rừng Yên Tử từ trên cao với những cây thông hàng trăm năm tuổi nằm xen kẽ trong những cánh rừng xanh tươi và hít thở không khí trong lành.

Về phần đường đi cũng đã được xây bậc đá có lan can và hệ thống cột đèn từ chân núi lên Chùa Đồng để phục vụ du khách trong và ngoài nước đến Yên Tử lễ Phật, tham quan. .

Đầu xuân đi lễ chùa, ngắm cảnh núi rừng Yên Tử hùng vĩ, tận mắt chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc cổ từ thời Trần cùng những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh vô giá. Thật không có niềm vui nào lớn hơn.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Thành Nhà Hồ

Thành nhà Hồ thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa ngày nay, từng là kinh đô của Việt Nam từ năm 1398 đến năm 1407. Đây là một trong số ít thành lũy bằng đá còn sót lại ở Đông Nam Á.

Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới bởi những giá trị văn hóa, lịch sử và kỹ thuật độc đáo.

Thành Nhà Hồ được Hồ Quý Ly xây dựng vào năm 1397, dưới thời vua Trần Thuận Tông. Trong lịch sử, thành còn được gọi với các tên khác như An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Thành được xây dựng dưới sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly khi ông nhậm chức tể tướng dưới triều đại nhà Trần.

Sau khi xây xong thành, Hồ Quý Ly buộc vua Trần Thuận Tông dời đô từ Thăng Long (nay là Hà Nội) vào Thanh Hóa. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi thay họ Trần, Thành nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô, Hồ Quý Ly lấy quốc hiệu là Đại Ngu, nghĩa là hạnh phúc và vui vẻ. Tuy nhiên, triều đại này chỉ kéo dài 7 năm, là triều đại ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam.

Thành Nhà Hồ đáp ứng đầy đủ hai tiêu chí văn hóa mà UNESCO đưa ra để xếp hạng di sản công trình. Tiêu chí 2 “Thể hiện những giá trị nhân văn quan trọng và tầm ảnh hưởng của chúng đối với một giai đoạn lịch sử dân tộc hoặc một khu vực trên thế giới, những đóng góp này mang tính phát triển về kiến ​​trúc, nghệ thuật xây dựng, điêu khắc và quy hoạch thành phố”.

Tiêu chí thứ tư “Trở thành mẫu mực tiêu biểu của một loại hình công trình, một quần thể kiến ​​trúc, kỹ thuật hay cảnh quan thể hiện giá trị của một thời kỳ (hoặc hơn thế nữa) trong lịch sử nhân loại”.

Công trình này được đánh giá cao về mặt kỹ thuật xây dựng bằng những khối đá được cho là độc nhất vô nhị ở Việt Nam nói riêng và cả Đông Á, Đông Nam Á nói rằng chúng có niên đại từ cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV. Các nhà nghiên cứu đánh giá, kiến ​​trúc của Thành nhà Hồ được xây dựng rất khoa học, với những phiến đá lớn được đục đẽo vuông vức, đan xen theo hình múi bưởi để tránh chấn động lớn như động đất.

Đặc biệt giữa những phiến đá này không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn sừng sững hơn 600 năm, vượt qua bao tác động của động đất và bom đạn tàn phá. Ngoài ra, công trình đồ sộ và kiên cố này chỉ được xây dựng trong vòng 3 tháng đầu năm 1397.

Theo những tư liệu còn sót lại cùng với công tác khảo cổ học và nghiên cứu hiện trạng, quần thể di sản Thành Nhà Hồ bao gồm khu vực thành nội, hào thành, La thành và đàn Nam Giao nằm bên ngoài thành. Trong đó, Hoàng Thành là công trình đồ sộ và nguyên vẹn nhất còn lại cho đến nay.

Toàn bộ vòng thành ngoại thành là một tổ hợp gồm 4 cổng chính làm bằng những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, xếp chồng lên nhau. Những khối đá lớn này có phiến dài tới hơn 6m, nặng khoảng 20 tấn. Giải thích về cách vận chuyển những khối đá khổng lồ này, các nhà khảo cổ cho rằng người ta đã dùng những quả cầu đá để lăn chúng.

Những khối đá lớn này có phiến dài tới 6m, nặng khoảng 20 tấn, xếp khít vào nhau mà không cần bất kỳ chất kết dính nào.

Trước đây, bên trong kinh thành có nhiều công trình nguy nga như điện Hoàng Nguyên, điện Diên Thọ (nơi ở của Hồ Quý Ly), Đông Cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu… không thua kém kinh thành Thăng Long. Tuy nhiên, trải qua thời gian hơn 6 thế kỷ với nhiều tác động chủ quan và khách quan, hầu hết các công trình kiến ​​trúc này đã bị phá hủy hoàn toàn.

Trong quá khứ, có rất nhiều tòa nhà tráng lệ bên trong thành phố, nhưng chúng đã bị phá hủy. Một trong những bí ẩn lớn liên quan đến việc xây dựng là sự biến mất của đầu rồng trên đôi rồng được chạm khắc tỉ mỉ bên trong hoàng thành. Tượng rồng đá này được các nhà sử học đánh giá là tượng rồng đẹp và lớn nhất còn sót lại ở Việt Nam. Chúng có thân hình thuôn nhọn dần về phía đuôi, cong bảy khúc, phủ đầy vảy. Đôi rồng này còn mang giá trị đặc sắc của nghệ thuật chạm khắc thời Trần lúc cực thịnh.

Có nhiều giả thuyết về việc vì sao đầu rồng biến mất, nhưng giả thuyết cho rằng sau khi xâm lược nước ta, quân Minh đã chặt đầu rồng mang về được dư luận quan tâm.

Thành nhà Hồ là một di tích lịch sử quan trọng, có giá trị văn hóa và kiến ​​trúc cao trong quá khứ. Đến với di tích này, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng nét độc đáo của công trình cổ và tìm hiểu về kỹ thuật công phu này. Đây là điểm đến ngày càng được du khách trong và ngoài nước yêu thích.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về ruộng bậc thang Mù Cang Chải

Ruộng bậc thang Mù Cang Chải trải rộng trên diện tích hơn 2.300 ha nhưng tập trung nhiều nhất ở 3 xã La Pán Tẩn, Dế Xu Phình và Chế Cu Nha. Đây là nơi trồng lúa nước của đồng bào Mông và cũng là minh chứng cho sự sáng tạo trong canh tác lúa nước thích ứng với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, thủy lợi của đồng bào dân tộc miền núi.

Dừng xe bên đường, từ trên cao nhìn xuống cánh đồng lúa chín trên những thửa ruộng bậc thang, du khách sẽ choáng ngợp trước vẻ đẹp rực rỡ và hoàn mỹ của cảnh sắc thiên nhiên. Trời thu với nắng vàng rực rỡ, bớt cái nóng gay gắt, bên dưới là những thửa ruộng bậc thang lúa đã ngả vàng… Lúc này Mù Cang Chải như một bức tranh thêu tay đẹp đến từng chi tiết nhỏ, thơ mộng, tráng lệ, mê đắm. với mọi người. Một cảm giác sẽ khiến bạn không thể diễn tả thành lời mà chỉ biết tận hưởng và ghi lại nhiều khoảnh khắc nhất có thể.

Giữa “biển vàng” của mùa lúa chín, hương lúa vùng cao thơm ngào ngạt, những giọt mồ hôi ướt đẫm áo của đồng bào các dân tộc nơi đây… rồi theo họ về nhà, cuốn theo chiếc cối. xay xát để làm ra hạt gạo dẻo, thơm ngon. Có dịp đặt chân đến những bản làng nơi đây, bạn mới thấy được cuộc sống giản dị, bình dị nhưng rất gần gũi, thân thuộc của những người dân bản xứ mến khách. Chợt thấy thấm thía hơn về sự cố gắng, cần cù, chịu thương chịu khó của bao đời nay để làm nên nấc thang vươn tới trời cao…

Ruộng bậc thang Mù Cang Chải là Di tích danh lam thắng cảnh quốc gia được cấp bằng công nhận vào tháng 10/2007. Tại Tuần Văn hóa – Du lịch Ruộng bậc thang Mù Cang Chải năm 2015 vừa được tổ chức, du khách trong và ngoài nước không chỉ được chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang rực rỡ sắc màu. sắc vàng mà còn được thưởng thức chuỗi sự kiện đặc sắc, phong phú, hấp dẫn của lễ hội với các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao, ẩm thực như chợ vùng cao, hành trình với danh thắng Ruộng bậc thang Mù Cang Chải, chiếu phim, xe thư viện lưu động, tham gia trải nghiệm sinh thái. – Du lịch lữ hành, du lịch cộng đồng, triển lãm ảnh “Mù Cang Chải – Nấc thang vàng”, khảo sát thông tin bãi đá cổ, thi khèn Mông, chọi dê và các môn thể thao dân tộc, dù lượn đèo Khau Phạ…

Với chủ đề “Mùa vàng trên núi”, Lễ hội Danh lam thắng cảnh Quốc gia Ruộng bậc thang Mù Cang Chải năm 2015 thực sự là một bữa tiệc văn hóa đa sắc màu, mang lại nhiều cảm xúc và ấn tượng mạnh cho du khách trong thời gian tới. và ở nước ngoài.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về địa danh Núi Voi

Núi Voi được Nhà nước xếp hạng di tích cấp quốc gia, là trọng tâm khai thác điểm đến thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu giá trị nhiều mặt.

Trong chuyến du lịch quê về An Lão-Tiên Lãng-Vĩnh Bảo, trên đường 10, cách điểm giao nhau với đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng khoảng 3km, du khách đến với khu di tích, danh lam thắng cảnh. Núi Voi, Huyện An Lão.

Ấn tượng đầu tiên với du khách là hình ảnh nhìn từ xa với hình dáng một chú Voi khổng lồ giống như một đàn voi đang từ từ tiến ra biển. Địa điểm quen thuộc này ẩn chứa nhiều điều mới lạ, mang đến cho du khách những trải nghiệm, chiêm ngưỡng cảnh đẹp cũng như tìm hiểu những giá trị văn hóa lịch sử của khu di tích, danh thắng này.

Những năm gần đây, huyện An Lão chú trọng phát triển du lịch, xác định di tích, danh thắng núi Voi được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia là trọng tâm khai thác điểm đến thu hút du khách trong và ngoài nước. đến tham quan, nghiên cứu có giá trị nhiều mặt.

Trưởng phòng Văn hóa – Thông tin huyện An Lão Bùi Đức Bốn cho biết: Di tích danh thắng núi Voi có giá trị nổi bật về khảo cổ học; Lịch sử văn hóa; điểm thu hút khách du lịch; tiềm năng về văn hóa ẩm thực và văn hóa dân gian. Lịch sử của núi Voi được minh chứng bằng những công cụ bằng đá, bằng đồng, bằng sắt được khai quật trong các hang động với nhiều dấu tích cư dân thời Hùng Vương.

Về điều kiện địa lý, địa chất vẫn còn sò, hến sống bám trong các hang, vách đá ở độ cao 5-10 m. Đặc biệt, hệ thống hang động kỳ bí và hấp dẫn. Cùng với vị trí núi Voi với hai con sông Lạch Tray và Đa Độ uốn quanh tạo nên phong cảnh sơn thủy hữu tình, cảnh đẹp của quần thể nhìn từ đỉnh núi tựa như một bức tranh thiên nhiên kỳ thú được dệt nên từ đỉnh núi. núi. Cảnh đẹp núi non, sông nước, đồng ruộng nơi đây có thể ví như một “Hạ Long khô”.

Hành trình đến thăm quần thể di tích núi Voi, bắt đầu từ hang động dưới chân núi, nơi thờ nữ tướng Lê Chân, người có công khai phá vùng đất An Biên xưa, Hải Phòng ngày nay. Ngôi chùa này đã được tu bổ, tôn tạo khang trang, bề thế tạo nên một điểm đến lịch sử ấn tượng đối với mỗi du khách. Viếng Chùa Hang trước khi leo lên đỉnh núi theo dấu vết thành Nhà Mạc. Con đường này đã được trùng tu, lát đá bậc thang để du khách đi lại thuận tiện hơn. Cũng chính ngọn núi này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã làm nên “Huyền thoại núi Voi” với chiến công của 29 cô gái năm xưa đã hạ gục máy bay phản lực Mỹ.

Đặc biệt, hang Thành là minh chứng hùng hồn về điểm tựa núi Voi để tổ tiên ta đứng vững và chiến đấu trong các cuộc chiến tranh cam go, ác liệt. Đúng là di tích núi Voi mang trong nó giá trị lịch sử, càng tô điểm thêm giá trị của một danh lam thắng cảnh hấp dẫn đối với mỗi du khách khi đến đây. Nơi đây không chỉ có những di tích như đình chùa Chi Lai ở sườn phía Bắc với hàng cây cổ thụ và vườn chè Chi Lai nổi tiếng. Bảo tàng truyền thống phía Nam là câu chuyện lịch sử có thật ghi lại những hình ảnh, hiện vật vô cùng giá trị về núi Voi từ xưa đến nay.

Hay bàn cờ tiên trên đỉnh núi đưa du khách đến với câu chuyện ngày xưa các tiên nữ xuống đánh cờ trên đỉnh núi Voi rồi xuống hang Voi để tắm trong giếng ngọc. Trong chuyến hành trình, du khách có thể thú vị hơn khi thưởng thức “Chè Chi Lai, khoai Tiên Hội” hay món mía lau ngon nổi tiếng vùng Kênh Mía thuộc khu vực ven sông Văn Úc để kết thúc một chuyến đi với nhiều điều chưa đến. Khám phá hết hi vọng được 1 lần quay lại.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Chợ Bến Thành

Chợ Bến Thành xưa tọa lạc tại bến sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cạnh con đường dẫn vào thành Phụng, gọi là Bến Thành vì chợ nằm gần bến nước của thành Gia Định cũ và được xây dựng trên một mặt bằng. ao bùn (ao Bò – Rét).

Năm 1859, khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định, chợ Bến Thành bị thiêu rụi, sau đó chợ được xây dựng lại tại vị trí của Kho bạc nằm trên đường Nguyễn Huệ với cột gạch, sườn gỗ, mái tranh… Năm 1870, Chợ Bến Thành một lần nữa bị cháy, sau đó được xây dựng lại với 5 gian hàng mới: sạp thực phẩm, sạp cá, sạp thịt, sạp thực phẩm và sạp tạp hóa. Năm 1911, chợ bị phá bỏ và xây dựng mới, đến 3 năm sau (năm 1914) chợ chính thức khánh thành và đi vào hoạt động. Và đến năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa hoàn toàn nhưng vẫn giữ được dáng vẻ cho đến ngày nay.

Trải qua gần một thế kỷ tồn tại và phát triển, chợ Bến Thành luôn giữ vị trí là một trung tâm thương mại tiêu biểu của thành phố, đồng thời là nơi chứng kiến ​​nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong các cuộc kháng chiến. giải phóng dân tộc của nhân dân thành phố và của cả nước. Vì vậy, chợ Bến Thành không chỉ là nơi mua bán mà còn là biểu tượng văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của TP.HCM và khu vực.

Chợ Bến Thành có 4 cửa nhìn ra 4 con đường chính của trung tâm quận 1. Cửa Bắc nhìn ra đường Lê Thánh Tôn, cửa Nam nhìn ra đường Lê Lợi, cửa Đông nhìn ra đường Phan Bội Châu, cửa Tây nhìn ra đường Lê Lợi. đường phố. Phan Chu Trinh và cổng chính với ngọn tháp cao nhìn ra quảng trường Quách Thị Trang được gắn 4 chiếc đồng hồ trên đỉnh tháp. Chính từ những chiếc đồng hồ được bố trí theo 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc đã tạo ấn tượng đặc biệt, hình thành cảm giác thân thuộc, sâu lắng và đặc biệt hơn đó là điểm nhấn tạo nên ngôi chợ. Bến Thành mà bất cứ du khách nào đã từng đặt chân đến Sài Gòn cũng muốn một lần ghé thăm chợ Bến Thành để rồi họ có chung một cảm nhận rằng nơi đây là nhịp sống, là trái tim của người dân Sài Gòn. Sài Gòn.

Trước năm 1945, chợ Bến Thành là nơi chứng kiến ​​nhiều cuộc mít tinh, biểu tình chống thực dân Pháp.

Với tiếng còi “Một, hai”, với bài hát “Lên đường”, với sự tình cờ của những thanh niên tiền phong ngày đêm lấy mặt tiền chợ làm nơi tập kết. Chợ Bến Thành thấy rõ từng khuôn mặt người dân Sài Gòn trong ngày lễ Tết Độc lập đầu tiên, và tại bùng binh này, các chiến sĩ Cách mạng đã tuyên thệ “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” hay “Bảo vệ Tổ quốc một khi ra đi, đi không kịp” rồi cũng có người không kịp trở lại để thấy đất nước đổi mới, nhưng trước đó cũng đã kịp nhìn đồng hồ chợ Bến Thành lần cuối trước khi đi. để chiến tranh. .

Hàng trăm ngàn sinh viên, phong trào công nhân trí thức và các tôn giáo chống lại sự đàn áp của chính quyền Mỹ – Thiệu, đặc biệt là sự hy sinh của nữ sinh Quách Thị Trang ngay trước cổng chợ Bến Thành trong cuộc đấu tranh của Phật giáo chống chế độ độc tài nhà Ngô phủ Định Diệm, nay là Quảng trường Quách Thị Trang.

Nếu như trước đây, về đêm ở chợ Bến Thành, bạn có thể nghe thấy tiếng guốc khuya, tiếng rao “Ai bột khoai, miến, đậu xanh, nước dừa, đường,…hôn”, tiếng lách cách của những chiếc xe đẩy, âm thanh của những chiếc xe đẩy. Khi tiếng đàn độc dược nghe tiếng ruột của những người ăn xin vô gia cư, chợ Bến Thành về đêm hôm nay nhộn nhịp hơn hẳn, đâu đó có tiếng gọi của các nam nữ thanh niên vào xin chút gì ăn. cho một buổi dạo chơi đêm trên đường phố Sài Gòn, hay tiếng cười không ngớt của lũ trẻ trong một gia đình nào đó khi cùng cha mẹ ghé vào các quán ăn đêm ở chợ đêm mà không về ăn đêm. chuẩn bị cho bữa cơm chiều của gia đình sau một ngày làm việc vất vả, hay những câu nói không đầu không đuôi bằng tiếng Việt của một số du khách nước ngoài khi bước vào khu bán hàng lưu niệm…

Năm 2004 – 2005, chợ Bến Thành được UBND TP.HCM công nhận là chợ đạt tiêu chuẩn Văn minh – Thương mại trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. .

Có ý kiến ​​cho rằng, không khó để xây dựng một trung tâm thương mại tầm cỡ quốc tế tại TP.HCM. Tuy nhiên, để giữ gìn một chợ Bến Thành luôn mang nét đặc trưng, ​​bản sắc riêng giữa sự thay đổi về quy hoạch, kiến ​​trúc ở trung tâm thành phố còn công phu hơn nhiều. Người dân Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung đã làm điều đó gần một thế kỷ qua. Bởi với họ, chợ Bến Thành là niềm tự hào, là biểu tượng của một thành phố năng động, một công trình văn hóa.

Qua báo Sài Gòn Tiếp thị, người tiêu dùng đã bình chọn chợ Bến Thành là “Điểm du lịch được hài lòng năm 2005”.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Quảng trường Ba Đình

Hà Nội là thủ đô ngàn năm văn hiến, nơi gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, cùng với hàng loạt công trình kiến ​​trúc, di tích có ý nghĩa văn hóa, lịch sử. quan trọng. Nhưng có lẽ trong 100 năm qua, Quảng trường Ba Đình là một trong những nơi sáng nhất, ghi dấu bao bước tiến dài của dân tộc, cùng những kỷ niệm không thể nào quên về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quảng trường Ba Đình hiện là quảng trường lớn nhất Việt Nam, nằm ở trung tâm thủ đô, trên đường Hùng Vương, quận Ba Đình. Trước đây, Quảng trường Ba Đình vốn là một bãi đất trống trong Hoàng thành Thăng Long, sau khi Hoàng thành bị phá hủy, vua Gia Long cho xây dựng một tòa thành mới lấy tên là Thành Hà Nội với diện tích nhỏ hơn, quảng trường rộng và có diện tích vuông vức. Cánh đồng tương ứng với cổng phía tây của thành phố này. Năm 1894, sau khi Pháp làm chủ hoàn toàn Đông Dương, chúng phá Thành Hà Nội để xây dựng trung tâm hành chính của Liên bang Đông Dương, trong đó có công trình chính là Vườn hoa Pugininer (quảng trường). , Bùng binh Pugininer và Toàn quyền. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Việt Nam cầm quyền được Nhật hậu thuẫn giành quyền kiểm soát khu vực quảng trường. Thị trưởng Hà Nội lúc bấy giờ là Trần Văn Lai đã nhanh chóng đổi tên tất cả các đường phố Hà Nội theo tên các nhân vật anh hùng trong lịch sử dân tộc. Và đặc biệt đổi tên vườn hoa Pugininer thành vườn hoa Ba Đình, để kỷ niệm cuộc khởi nghĩa chống Pháp những năm 1886 – 1887 ở Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa của nhân dân ta. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, quân và dân ta làm chủ Hà Nội. Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình, tại khán đài tạm thời trong vòng 48 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời ra mắt Chính phủ lâm thời với sự ra mắt của Chính phủ lâm thời. Quốc gia. Đánh dấu kỷ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc sau 80 giờ nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Chính từ sự kiện này, người dân Việt Nam đã gọi nơi đây là Quảng trường Ba Đình hay Quảng trường Độc lập để tưởng nhớ và đánh dấu mốc son chói lọi nhất trong lịch sử dân tộc.

Về mặt cấu trúc, Quảng trường Ba Đình dài 320m, rộng 100m, tổng diện tích khoảng 3200m2. Mặt sân được chia thành 210 ô cỏ, có tổng cộng 7 hàng dọc và 30 hàng ngang bằng nhau, giữa các hàng được chia ô rộng 1,4m, lối đi lát gạch. Bên dưới các ô cỏ là hệ thống đường ống dẫn nước, ống thoát nước, mạng lưới lọc nước và cấp nước ngầm được liên kết chặt chẽ với nhau, đảm bảo cho các thảm cỏ luôn xanh tốt, đồng thời phục vụ cho các công trình xung quanh quảng trường Ba Đình. Nổi bật giữa trung tâm quảng trường là cột cờ cao 25m, lá cờ đỏ sao vàng tung bay hàng ngày, nhằm khẳng định nền độc lập, chủ quyền vững chắc của dân tộc trong hàng chục năm sau chiến tranh, đánh dấu một thời kỳ hòa bình lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Bên ngoài Quảng trường Ba Đình, ngoài những công trình kiến ​​trúc đã có từ thời mới xây dựng như Phủ Toàn quyền thời Pháp, ngày nay còn có những công trình quan trọng như Phủ Chủ tịch, Hội trường Ba Đình. và đặc biệt nhất trong trái tim mỗi người dân Việt Nam là Lăng Bác, nơi mà mỗi người con khi trở về đều cảm thấy niềm tự hào xen lẫn bùi ngùi, xúc động. Bác Hồ mãi mãi ở lại với thủ đô, nhìn đất nước ngày càng lớn mạnh, trong lăng Bác ấy ta vẫn thấy “một mặt trời trong lăng đỏ lắm”…

Quảng trường Ba Đình ngày nay là một địa điểm quan trọng, nơi thường diễn ra các hoạt động kỷ niệm và các cuộc họp quan trọng của chính phủ. Đồng thời cũng là một trong những địa điểm tham quan, dạo mát của người dân thành phố và cả du khách trong và ngoài nước. Trong quá khứ, nơi đây ngoài sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, còn diễn ra một số sự kiện quan trọng như ngày 1-1-1955, diễn ra mít tinh, duyệt binh. lần đầu tiên Quân đội nhân dân Việt Nam đón đoàn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về Thủ đô; ngày 9-9-1969 diễn ra lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh về nơi cực lạc; ngày 2-9-1975, diễu binh, diễu hành mừng ngày thống nhất đất nước; ngày 10/10/2010, là nơi diễn ra mít tinh, diễu binh, diễu hành nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Trong đó thường xuyên nhất là nghi lễ thượng cờ, thượng cờ và hạ cờ diễn ra hàng ngày, trở thành một biểu tượng, một nghi thức đẹp của thủ đô Hà Nội hôm nay.

Quảng trường Ba Đình với quần thể cảnh quan, kiến ​​trúc được quy hoạch khoa học, đẹp mắt bậc nhất Hà Nội cùng với những giá trị văn hóa, lịch sử gắn liền với những đổi thay mạnh mẽ của đất nước, đã trở thành một trong những địa điểm có giá trị tinh thần quý giá, ghi dấu ấn trong lòng người dân của Thủ đô cũng như người dân cả nước. Đồng thời, tiếp tục giữ vị trí, vai trò quan trọng là nơi hội tụ các sự kiện trọng đại của đất nước hôm nay và cả trong tương lai.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về nhà thờ Đức Bà

Mỗi thành phố đều có một vẻ đẹp riêng với những công trình, kiến ​​trúc, di tích và danh lam thắng cảnh riêng. Nếu Hà Nội nổi tiếng với phố cổ thì Hồ Chí Minh thu hút du khách đến với Nhà thờ Đức Bà. Với lối kiến ​​trúc độc đáo, ẩn chứa ý nghĩa lịch sử và tôn giáo sâu sắc, Nhà thờ Đức Bà đã trở thành một di tích danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Sài Gòn ngày nay.

Tọa lạc tại số 1, Công xã Paris, P. Bến Nghé, ngay trung tâm Quận 1, TP.HCM, Nhà thờ Đức Bà với kiến ​​trúc Pháp cổ kính, không gian thoáng mát với cây cối xanh tươi, là một trong những biểu tượng đặc trưng của Sài Gòn.

Về nguồn gốc lịch sử, Nhà thờ được xây dựng từ nhiều năm trước. Năm 1960, sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp sửa ngôi chùa Việt bỏ hoang trên đường số 5 thành nhà thờ để làm nơi cử hành thánh lễ cho giáo dân. Sau đó, năm này qua năm khác, tùy theo nhu cầu mở rộng, ngôi nhà thờ ban đầu được trùng tu và xây dựng lớn hơn và tinh vi hơn. Tháng 8 năm 1876, thống đốc Nam Kỳ Duperré tổ chức một cuộc thi thiết kế kiến ​​trúc cho một nhà thờ mới. Kiến trúc sư J. Bourad đã chiến thắng với thiết kế mang phong cách kiến ​​trúc Roman cải biên xen lẫn nét Gothic. Ông là người xây dựng nhà thờ sau này. Công trình của J. Bourad khởi công từ tháng 10 năm 1977 đến tháng 4 năm 1880 thì hoàn thành, được đặt tên là nhà thờ Nhà nước vì được nhà nước đầu tư xây dựng. Tháng 2 năm 1959, tượng Đức Mẹ được tạc ở Pietrasanta và đưa đến đặt trước nhà thờ, nhà thờ được đổi tên là Notre Dame, tên gọi này được giữ cho đến ngày nay.

Với thiết kế đặc biệt, khu nhà thờ được đánh giá là đẹp nhất TP.HCM. Nằm giữa quảng trường, không có rào chắn và khuôn viên liền kề, không bị che khuất bởi các công trình kiến ​​trúc khác, có tầm nhìn đẹp từ mọi phía, thực sự là điểm nhấn của không gian. đô thị. Mặt trước nhà thờ là công viên (Quảng trường Công xã Paris) với bốn con đường cắt nhau tạo thành hình chữ thập, gần đó là Bưu điện Sài Gòn. Ở trung tâm của công viên là một bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình. Tượng có thể đứng thẳng, tay cầm quả địa cầu có gắn thánh giá, mắt Đức Mẹ nhìn lên trời xanh như đang cầu nguyện. Trên bệ đá, phía trước tượng có tấm bảng đồng ghi dòng chữ Latinh: “REGINA PACIS – ORA PRO NOBIS – XVII. II. MCMLIX. Ý nghĩa: Nữ Vương Hòa Bình – CẦU NGUYỆN CHO CHÚNG TÔI – 17/02/1959”. Giữa hai tháp chuông trước đó, dưới mái nhà là một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ lớn, ngày nay vẫn chạy và hiển thị thời gian chính xác. Vào đêm trước Giáng sinh, chuông sẽ reo.

Gần 140 năm đã trôi qua nhưng Nhà thờ Đức Bà vẫn sừng sững, bất chấp sự tàn phá của thời gian. Nhà thờ được thiết kế theo dạng Vương cung thánh đường với mặt bằng hình chữ thập kéo dài, bao gồm một gian lớn ở giữa, hai hành lang chái và hậu cung hình bán nguyệt, mang đậm nét kiến ​​trúc La Mã. Ngoại thất được cải tiến với hình vòm gãy mang nét Gothic. Bên trong là kết cấu vòm thép hiện đại chống đỡ toàn bộ công trình. Phần móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt để chịu được tải trọng lớn gấp 10 lần toàn bộ kiến ​​trúc của nhà thờ phía trên nó. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có hàng rào, tường bao như các nhà thờ quanh Sài Gòn – Gia Định xưa và nay.

Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng tiếp theo là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ thánh đường dài 93m, có 56 ô cửa kính với họa tiết tinh xảo. Trên cửa khắc họa các điển tích hoặc sự tích trong kinh thánh, 31 hình hoa hồng tròn, 25 cửa sổ hồng tâm bằng kính nhiều màu kết hợp với các hình ảnh rất đẹp. Bề ngang nơi rộng nhất là 35m. Chiều cao mái vòm của thánh đường là 21m. Sức chứa của thánh đường có thể lên tới 1.200 người, không gian thoáng đãng. Tuy không đồ sộ như những công trình kiến ​​trúc khác nhưng nhà thờ Đức Bà được đánh giá là công trình kiến ​​trúc độc đáo và đẹp nhất trong các công trình ở thời Pháp thuộc lúc bấy giờ.

Toàn bộ vật liệu xây dựng và các phụ kiện kim khí khác đều được chuyển từ Pháp sang. Bề mặt công trình được ốp trần và đá xanh, được tính toán tỉ mỉ, chính xác đến từng đường nét. Theo thời gian, một số bộ phận bị xuống cấp, hư hỏng và được thay thế bằng vật liệu trong nước nhưng vẫn đảm bảo tính thẩm mỹ như ban đầu. Kiến trúc của thánh đường đã tạo nên hiệu ứng ánh sáng tuyệt vời trong nội thất, tạo cho người ta cảm giác thanh thản, yên bình và trang nghiêm.

Notre Dame có giá trị đặc biệt. Nhà thờ được coi là một công trình văn hóa, tinh thần hài hòa giữa kiến ​​trúc Đông Tây, truyền thống và hiện đại. Sự hài hòa giữa kiến ​​trúc và cảnh quan xung quanh cùng với phong cách độc đáo đã khiến Nhà thờ Đức Bà trở thành một kiệt tác của lịch sử, đại diện cho vẻ đẹp của Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây là điểm đến quen thuộc của giới trẻ Sài Gòn và nằm trong danh sách ghé thăm đầu tiên của du khách trong và ngoài nước khi lần đầu đặt chân đến Hồ Chí Minh.

Năm tháng trôi qua, nhà thờ Đức Bà vẫn đứng vững giữa lòng thành phố, trở thành biểu tượng của Sài Gòn sầm uất và cũng trở thành niềm tự hào của người dân nơi đây.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về chùa Bái Đính

Đất nước ta có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp mang giá trị văn hóa tâm linh đặc sắc của dân tộc Việt Nam như: Chùa Hương, Yên Tử… Một trong số đó phải kể đến chùa Bái Đính – nét đẹp tâm linh trong lòng du khách. Cố đô Hoa Lư.

Chùa Bái Đính là khu du lịch tâm linh đã xác lập nhiều kỷ lục Châu Á và Việt Nam, là công trình của Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường, nằm ở cửa ngõ phía Tây của khu di tích cố đô Hoa Lư, trên quốc lộ 38B. thuộc xã Gia Sinh – Gia Viễn – Ninh Bình, nằm ở phía Bắc của quần thể di sản thế giới Tràng An. Có thể nói đây là ngôi chùa lớn nhất và nhiều kỷ lục nhất của Việt Nam. Chùa được hình thành cách đây hơn nghìn năm, trên mảnh đất Ninh Bình giữa hai triều đại Đinh và Lý vì ba triều đại này đều rất quan tâm đến đạo Phật và đưa Phật giáo trở thành quốc sách hàng đầu cùng với việc xây dựng chùa. nhiều chùa chiền. Quần thể chùa Bái Đính hiện nay gồm hai khu: khu chùa cũ và khu chùa mới, nằm trên núi Tràng An.

Trải qua hàng nghìn năm biến đổi với những biến động lịch sử, chùa Bái Đính cổ vẫn giữ được nét đẹp kiến ​​trúc độc đáo của các triều đại xưa. Nơi đây nằm cách điện Tam Thế của khu vực chùa Mới 800m về phía Nam, mặt chùa quay về hướng chính Tây, gồm một nhà tiền đường ở giữa, quay về bên phải là động Sáng thờ Phật, sau đó là động đền thờ thần Cao Sơn. – vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm, là một trong ba ngôi đền của trấn Hoa Lư, ra đời dưới thời nhà Đinh, ở cuối cửa sau động Sáng; Rẽ trái là đền thờ Thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Nơi đây hội tụ đầy đủ các yếu tố hiền tài theo quan niệm dân gian: đất sinh Vua, sinh Thánh, trời sinh Chúa. Đặc biệt phải kể đến đền thờ Đức Thánh Nguyễn – người sáng lập chùa Bái Đính, Lý Quốc Tổ và Nguyễn Minh Không, một thiền sư, pháp sư tài ba của thời Lý. Theo sử cũ, ông đã đến đây tìm cây thuốc cho vua Lý Thần Tông, phát hiện ra một động đẹp, liền xây chùa thờ Phật và xây dựng vườn thuốc quý để chữa bệnh cho nhân dân. Không chỉ vậy, ông còn có nhiều đóng góp to lớn như có công lập “tứ đại khí”, ông tổ nghề đúc đồng,.. nên được nhân dân lập đền thờ ông, đền được đặt ngay tại ngã ba. Ở đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong chùa có tượng Ngài đúc bằng đồng. Ngoài ra còn có giếng ngọc được xác nhận là giếng lớn nhất Việt Nam. Tương truyền, Nguyễn Minh Không đã lấy nước ở đây trị bệnh cho dân và cho vua Lý Thần Tông. Có thể nói, khu chùa cổ Bái Đính có lịch sử hình thành từ thời nhà Đinh, nhưng phải đến thời nhà Lý, khu chùa cổ mới được hoàn thiện, mang kiến ​​trúc của thời nhà Lý.

Khu chùa mới được xây dựng năm 2003, có nét đẹp kiến ​​trúc độc đáo, đậm đà bản sắc truyền thống dân tộc. Kiến trúc ở đây nổi bật với những hình khối to lớn, hoành tráng, sử dụng vật liệu chủ yếu tại địa phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ quý), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm… Đặc biệt ngôi chùa mới có mái vòm. Mái vòm cong cong màu nâu sẫm của đuôi phượng tạo nên sự khác biệt với mái vòm thẳng thô của chùa Tàu. Các chi tiết kiến ​​trúc ở đây đều mang đậm dấu ấn làng quê Việt truyền thống bởi là sản phẩm của 500 nghệ nhân gồm nhiều nhóm thợ đến từ các làng nghề nổi tiếng như mộc Phúc Lộc, điêu khắc đá Ninh Vân… Đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng, trạm bạc Đồng Xâm… các nghệ nhân này sử dụng vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói tráng men Bát Tràng… để tạo nên vẻ đẹp. thuần Việt cho ngôi chùa mới. Chùa bao gồm cổng Tam quan với hai pho tượng hộ pháp (ông Thiện và ông Ác), hành lang La Hán với 500 pho tượng đá với các diện mạo khác nhau, các chánh điện như Quan m, Pháp Chủ, Tam Thế, các tháp. chuông, đây là nơi thờ Phật. Ngoài ra còn có tượng Di Lặc – pho tượng lớn nhất Việt Nam tọa lạc trên một ngọn đồi của chùa và Bảo Tháp trưng bày xá lợi Phật linh thiêng từ Ấn Độ và Miến Điện.

Lễ hội chùa Bái Đính là lễ hội đầu xuân, diễn ra từ chiều mùng 1 Tết, khai mạc vào mùng 6 Tết và kéo dài đến hết tháng 3, mở đầu cho các lễ hội hành hương về cố đô xứ Hoa. Lữ, Ninh Bình. Cái lọ. Không chỉ có vẻ đẹp kiến ​​trúc độc đáo, đồ sộ mà nơi đây còn mang những giá trị đặc sắc về lịch sử phong kiến ​​xưa, văn hóa tâm linh, đời sống tâm linh của người Việt và có giá trị du lịch cao. thu hút nhiều du khách thập phương cũng như người dân bản địa đến tham quan, chiêm bái, thắp hương cầu may. Với những giá trị đó, Ninh Bình là niềm tự hào của người dân Cố đô Hoa Lư nói chung và người dân Việt Nam nói riêng, quảng bá nét đẹp văn hóa tâm linh của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. .

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về động Phong Nha – Kẻ Bàng

“Đệ nhất động Phong Nha” nằm trong quần thể hang động ở khối núi đá vôi Kẻ Bàng, phía Tây Quảng Bình.

Có thể đến Phong Nha rất dễ dàng bằng hai cách: đường thủy ngược dòng sông đến đoạn gặp sông rồi men theo sông để vào. Đường đi theo tỉnh lộ 2 đến bến Sông Son (dài khoảng 20 km). Từ bến sông này, đi thuyền máy mất khoảng ba mươi phút là đến cửa hang. Mang tiếng là sông “son” nhưng nước có màu xanh thăm thẳm và rất trong. Ngồi trên thuyền xuôi dòng, nhìn ra hai bên bờ là những dãy núi đá vôi trùng điệp, lác đác những làng mạc, những nương ngô, nương mía. Phong Nha gồm hai phần: động khô và động nước. Động khô ở độ cao 200m, theo các nhà địa lý, xưa kia là một dòng sông ngầm, nay đã cạn kiệt, chỉ còn lại những vòm đá trắng và vô số cột đá xanh ngọc bích óng ánh.

Trái ngược với hang khô, hang nước hiện nay vẫn còn một dòng sông dài ngày đêm chảy róc rách… Dòng sông khá sâu và nước rất trong. Hấp dẫn và được du khách lui tới nhiều nhất là động nước.

Vào động nước phải đi thuyền và mang theo đuốc, vì càng vào sâu trong động càng tối. Hiện tại, một số điểm trong hang đã có điện, nhưng muốn đi hết 1.500m vẫn cần đuốc, đèn.

Hang chính khang trang bao gồm mười bốn buồng, nối với nhau bằng một hành lang phụ dài vài trăm mét. Ở các buồng bên ngoài, trần hơi thấp, chỉ nhô lên mặt nước một chút. Từ khoang thứ 4 trở đi, vòm hang cao từ 25-40m. Đến động thứ mười bốn, bạn men theo những hành lang hẹp để đến những hang động lớn nằm sâu bên trong, những dòng sông ngầm dưới những khối núi đá vôi và khu rừng nguyên sinh rộng 40 ha vẫn còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn. những bí mật thú vị và hấp dẫn mà mọi người vẫn chưa biết hết.

Đi thuyền vào thăm hang động, chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng và thích thú trước vẻ đẹp lộng lẫy, huyền ảo của nó. Dưới ánh sáng lung linh của những ngọn đuốc, những nhũ đá hiện lên đủ hình thù, màu sắc. Có khối hình con gà, con cóc, khối hình cây sào tre đứng trên mặt nước… Khối khác hình mâm xôi, hình khánh, hay hình tiên nữ đánh cờ.. .Bàn tay tài hoa của thiên nhiên đã tạo nên những khối nhũ đá không chỉ đẹp về đường nét mà còn rất huyền ảo về màu sắc, một màu lấp lánh như kim cương mà không bút mực nào có thể diễn tả được. Đây đó, trên vách hang, những nhành phong lan xanh rủ xuống. Trong hang còn có một số bãi cát, bãi đá để thuyền bè dừng chân và leo trèo, luồn lách qua các bậc đá, ngõ ngách để tham quan đây đó, chụp ảnh, ghi hình hoặc thắp hương. trên những bàn thờ do người coi sóc và người Việt lập từ xa xưa.

Đi suốt chiều dài hơn nghìn mét ở phần ngoài của động tươm tất, du khách có cảm giác như lạc vào một thế giới khác – thế giới bồng lai tiên cảnh. Nơi đây vừa mang nét hoang sơ, vừa huyền bí; nhưng rất yên bình và thơ mộng cùng một lúc. Tiếng gõ nước, tiếng trong hang có âm vang riêng, như tiếng đàn, tiếng chuông chùa, bụt.

Với vẻ đẹp độc đáo có một không hai, động Phong Nha được coi là “đệ nhất kỳ quan hang động” của Việt Nam.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về Lăng Bác

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lăng Bác Hồ, là nơi đặt thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức được khởi công vào ngày 2-9-1973 tại vị trí lễ đài cũ ở giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Người từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.

Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét, lớp dưới có dạng bậc tam cấp, lớp giữa là công trình kiến ​​trúc trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và hành lang, cầu thang lên xuống. Xung quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam giác. Mặt chính có dòng chữ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá màu hồng mận. Lăng được xây dựng theo phong cách kiến ​​trúc hiện thực – xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên bản của Lăng Lê-nin.

Lăng được xây dựng trên nền cũ của lễ đài chính giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, chính phủ chính thức khởi công xây dựng lăng vào ngày 2 tháng 9 năm 1973. Cát được đồng bào Mường lấy từ suối Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình: Đá cuội được chuyển từ các con suối ở Sơn Dương, Chiến Hóa , Ngòi Thia, Tuyên Quang…; Các loại đá được chọn để xây lăng từ khắp nơi trên thế giới: đá Nhồi ở Thanh Hóa, đá Hóa (Miếu Thầy), đá nhỏ trên núi Non Nước…; Người dọc dãy Trường Sơn còn gửi ra 16 loại gỗ quý. Các loại cây từ khắp nơi được đưa về đây như: bách nâu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên – Lai Châu, tre từ Cao Bằng… Các bạn thanh niên còn tổ chức một buổi lao động mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện thắp sáng, thiết kế xây dựng lăng và bảo quản thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô đảm nhận.

Trên đỉnh lăng có dòng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá ngọc bích đỏ. Cửa lăng được làm từ các loại gỗ quý của Tây Nguyên. Tiền sảnh có dòng chữ “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do” và chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dát vàng. Hai bên cửa là hai cây hoa lớn. Trước và sau lăng trồng 79 cây vạn thọ, tượng trưng cho 79 năm cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hai bên lăng nam và bắc là hai hàng tre, biểu tượng của đất nước Việt Nam. Trước cửa lăng luôn có hai vệ binh đứng gác.

Chính giữa lăng là thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh được đặt trong hộp kính, xung quanh là những tấm gỗ quý chạm khắc hoa văn mây trời, đặt trên bệ đá. Qua lớp kính trong suốt, thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ quần áo kaki, chân đi một đôi dép cao su.

Tham Khảo Thêm:  ✓ Bài tập có đáp án chi tiết về phép đếm kết hợp quy tắc cộng và nhân lớp 11 phần 3

Lăng có hình vuông, mỗi cạnh 30m, cửa quay về hướng Đông, Nam, Bắc có hai lễ đài dài 65m dành cho khách vào những dịp trọng đại. Trước lăng là Quảng trường Ba Đình với đường diễu binh, diễu binh, bãi cỏ dài 380 m chia thành 240 ô vuông cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Trước lăng là cột cờ, hàng ngày Quốc kỳ kéo lên lúc 6 giờ và hạ lúc 21 giờ. Xuyên qua bãi cỏ là đường Bắc Sơn rợp bóng hoa hồng, hoa đào. Cuối đường Bắc Sơn là Tượng đài Liệt sỹ.

Phía Tây quảng trường là khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có Bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn nơi Bác từng ở và làm việc. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên có nhiều đoàn khách các tỉnh, thành phố trong và ngoài nước đến viếng.

Hàng tuần có hơn 15.000 lượt người đến viếng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhiều cá nhân, tập thể đến thăm lăng vào các ngày lễ, ngày kỷ niệm quan trọng của đất nước. Chúng ta có thể cảm nhận được không khí trang nghiêm nơi đây và sự tôn kính của nhân dân đối với Người khi vào thăm lăng Bác.

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cửa 5 ngày trong tuần, vào các buổi sáng thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ bảy và chủ nhật. Mùa nắng nóng từ (1-4 đến 31-10): Từ 7 giờ 30 đến 10 giờ 30; mùa lạnh (từ ngày 1 – 11 đến ngày 31 – 3 năm sau): Từ 8 giờ đến 11 giờ; ngày lễ, thứ 7, chủ nhật mở thêm 30 phút. Hàng năm, lăng được đóng cửa để tu bổ định kỳ vào 2 tháng: tháng 10 và tháng 11.

Du khách phải tuân thủ các yêu cầu như ăn mặc chỉnh tề, không mang theo máy ảnh, tắt điện thoại, chất nổ… để đảm bảo an ninh, trật tự trong lăng.

Vào Lăng viếng Bác, lòng tôi luôn dạt dào biết bao cảm xúc. Là những người con của đất nước Việt Nam, chúng ta hãy chăm ngoan học giỏi để mai sau giữ gìn và phát triển đất nước, xứng đáng là “Cháu ngoan Bác Hồ”.

Tả danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về làng tranh Đông Hồ

Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Từ bao đời nay, người Việt Nam đã quen thuộc với cái tên Đông Hồ, gắn liền với nghề làm tranh dân gian nổi tiếng. Trước đây, hầu như nhà nào cũng làm tranh, nhưng nay những gia đình chuyên làm tranh Đông Hồ không còn nhiều nên những gì còn lại càng quý. Không ai biết chính xác tranh Đông Hồ ra đời từ bao giờ nhưng căn cứ vào gia phả trong làng thì muộn nhất là vào thời Lê. tức là cách đây khoảng 500 năm. Theo sử sách của làng, gia đình gắn bó với nghề lâu nhất ở đây là gia đình ông Nguyễn Đăng Chế. Tính đến nay, gia đình ông đã có 20 đời theo nghề. Cả gia đình anh ba đời đều say mê tranh Đông Hồ. Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ do con cháu ông xây dựng mới khánh thành rộng 5.500m2 tạo nên một không gian văn hóa đặc sắc. trở thành địa chỉ tham quan làng nghề không thể thiếu đối với du khách trong và ngoài nước.

Khác với nhiều loại tranh trên thị trường hiện nay, tranh làng Đông Hồ không được vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà được in bằng ván. Để có những bản khắc đạt đến độ tinh xảo, phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu vào bảng khác đòi hỏi họ phải có tình yêu nghệ thuật, tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Quá trình in tranh có lẽ không khó lắm vì ai cũng có thể vẽ lên bảng rồi in.

Giấy dùng để in tranh là giấy láng. Trước khi in, giấy dó được phủ một lớp vỏ sò làm nền, lớp vỏ sò óng ánh được lấy từ vỏ sò, hến tạo nên chất liệu độc đáo của tranh dân gian Đông Hồ. Để có được một bức ảnh đẹp. Màu sắc thường được lấy từ các nguyên liệu tự nhiên: màu đen phải đốt lá tre rồi lấy thành than, màu xanh lấy từ vỏ lá tràm, màu vàng lấy từ hoa đỏ thắm 13 từ thân và rễ cây. rượu, màu sơn được lấy từ sỏi núi, màu trang là vỏ sò. Trong những năm gần đây, có một số người đã từng sử dụng một số phẩm màu, hóa chất khi in tranh (làm như vậy sản phẩm sẽ tăng lên nhưng chất liệu màu của tranh không được tươi và sặc sỡ như tranh truyền thống. Trong một thời gian ngắn màu sẽ phai, không bền.

Tranh dân gian Đông Hồ không áp dụng chặt chẽ về máy móc, nguyên tắc ánh sáng hay quy luật xa gần như tranh hiện đại. Các nghệ nhân làm tranh giả có nhiều ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả màu sắc. Tất cả đều dùng lối vẽ đơn giản để thể hiện nên nhìn vào tranh dân gian ta thường bắt gặp cái hay ở những nét vẽ giản dị mà hợp lý, hồn nhiên.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về thành Cổ Loa

Khu di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng, huyện Đông Anh (Hà Nội), cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 17km về phía Bắc, Khác với các di tích lịch sử khác, Cổ Loa là một quần thể di tích với diện tích trải rộng trên diện tích lớn, có diện tích bảo tồn gần 500 ha. Khu di tích này được coi là địa chỉ văn hóa đặc sắc của thủ đô và cả nước.

Cổ Loa từng là kinh đô của nước U Lạc thời An Dương Vương (thế kỷ III TCN) và của Đại Việt thời Ngô Quyền (thế kỷ X). Hiện nay. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn nhất, kết cấu cũng độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.

Cổ Loa có hàng loạt di chỉ khảo cổ đã được phát hiện, phản ánh quá trình phát triển liên tục của người Việt từ buổi sơ khai qua các thời đại đồ đồng, đồ đá và đồ sắt mà đỉnh cao là văn hóa phương Đông. Sơn, vẫn được coi là nền văn minh sông Hồng trong thời kỳ tiền sử của dân tộc Việt Nam.

Thành Cổ Loa được xây dựng theo hình trôn ốc (nên gọi là Loa Thành). Tương truyền có 9 vòng thành, dưới vòng thành là hào sâu ngập nước để thuyền bè qua lại. Ngày nay ở Cổ Loa còn lại 3 vòng thành đất với tổng chiều dài 16km: vòng ngoài (thành ngoài) có chu vi 8km, vòng giữa (thành giữa) hình đa giác có chu vi 6,5km và vòng trong (thành nội). hình chữ nhật, chu vi 1,6km).

Tương truyền, thành đến đâu, đắp lũy đến đó, cả ba vòng thành đều có hào bao quanh. Phía đông Thành Trung là Đầm Cả, có năm con suối dẫn nước vào Thành Trung và Thành Nội, tạo thành một vòng khép kín, rất thuận lợi cho việc thiết lập các căn cứ bộ binh, thủy binh linh hoạt. Thành ngày nay có chiều cao trung bình 4-5m, có nơi cao tới 12m, thành rộng hai ba chục mét. Khi đó, vũ khí chỉ là gươm, giáo và cung tên, quy mô của thành Cổ Loa tỏ ra rất kiên cố.

Thành Cổ Loa gắn liền với những truyền thuyết kỳ thú của dân tộc Việt Nam về việc vua An Dương Vương định đô, xây thành; Về nỏ thần Kim Quy bắn hạ hàng trăm tên địch; Về mối tình bi tráng và cảm động Mỵ Châu – Trọng Thủy… Từ bao đời nay, tòa thành cổ này cùng với những nhân vật lịch sử huyền thoại đã đi vào tiềm thức của người dân đất Việt.

Khu vực nội thành có nhiều di tích lịch sử kiến ​​trúc nghệ thuật như khu đền Thượng thờ An Dương Vương, đình Ngư Triều, đền Mỵ Châu, chùa Bảo Sơn.

Trong quần thể Khu di tích Cổ Loa, Đền Thượng (Đền thờ Thục Phán An Dương Vương) là điểm tham quan đáng chú ý nhất. Ngôi đền được xây dựng vào năm 1687 dưới triều vua Lê Hy Tông, đứng trên một ngọn đồi cổ kính với cung điện của nhà vua. Trước cửa đền có đôi rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, được chạm khắc tinh xảo, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.

Cổ Loa ngày nay không chỉ trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sức sáng tạo, trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm, mà còn là một điểm đến lý tưởng cho du khách thập phương. những ai muốn khám phá những giá trị văn hóa và hình ảnh quen thuộc của một làng quê Bắc Bộ yên bình.

Hàng năm vào ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa lại tổ chức lễ hội long trọng để tưởng nhớ những người có công xây thành, đặc biệt là để tri ân An Dương Vương, người sáng lập ra nhà nước phong kiến. Mất.

Vì vậy, không chỉ người Hà Nội, người một số tỉnh trong nước yêu thích tranh dân gian Đông Hồ chịu khó đến làng tranh tham quan, tìm hiểu và chọn mua mà rất nhiều du khách, người trong giới làm tranh nước ngoài và các nhà mỹ thuật cũng về đây nghiên cứu về nghệ thuật làm tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Đây cũng là một trong những cách để bảo tồn và phát triển dòng tranh.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về di tích lịch sử Đền Hùng

Trong tiềm thức của mỗi người Việt Nam, về với Đền Hùng là hành hương trở về cội nguồn, tìm lại những dấu ấn lịch sử hào hùng của thời vua Hùng dựng nước. “Dù ai ngược xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba/ Tiếng hát vang khắp miền/ Nước non ngàn năm vẫn là nước non”. Cụm di tích Đền Hùng trên đỉnh núi cao hùng vĩ. Bàn thờ Tổ tọa lạc trên núi Nùng (Nghĩa Lĩnh) thuộc làng Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ngọn núi Nùng cao 175m nổi bật trên ngọn đồi Bạch Hạc Phong Châu. Đền Hùng là tên gọi chung của bốn ngôi đền và một lăng trên núi Nùng. Từ cổng chính đi lên là Đền Hạ, tương truyền đây là nơi bà u Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm người con tạo nên sức mạnh của nước Việt. Lên nữa là Đền Trung, nơi các vua Hùng bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng và trên đỉnh núi là Đền Thượng với bốn chữ vàng “Nam Việt Triệu Tổ” (Vị tổ muôn đời của nước Việt). Đây là nơi Vua Hùng thờ Thánh Gióng và làm lễ tế trời đất để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân dân ấm no. Bên cạnh Đền Thượng là một lăng nhỏ thường được gọi là Lăng Tổ với ý nghĩa tượng trưng. Từ lăng đi xuống về phía Đông, dưới chân núi là Đền Gióng, nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con trai Vua Hùng thứ 18, soi mình trong gương nước nên giếng còn có tên là Giếng Ngọc. Cái giếng đó bây giờ nằm ​​trong chùa.

Đứng trước Đền Thượng (đỉnh Hùng Sơn) phóng tầm mắt nhìn ra tám phương bốn hướng, trải ra trước mắt cả một vùng trung du tươi đẹp và bạt ngàn đồi xanh, lấp lánh mặt nước nơi ngã ba sông. Những ngôi nhà và nhà máy mới mọc lên làm cho khung cảnh trở nên sống động. Con người cảm thấy mình thật nhỏ bé trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Sự đổi thay của đất và người Phú Thọ đã tô thêm vẻ đẹp cho Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Đứng sừng sững về phía đông là dãy Tam Đảo chạy dài như bức tường thành. Phía tây, núi Tản Viên sừng sững. Sông Đà, sông Lô, sông Thao hợp nhất thờ Đền Hùng càng làm tăng thêm vẻ uy nghiêm của khu di tích: “Nhìn thế rồng chầu hổ phục bên tả Sơn, hữu Tản Viên Lộ, Đà hai bên cồn Thao. Dòng sông. Dòng nước trên Nhị Hà” Cố đô Văn Lang, Nghĩa Lĩnh – Việt Trì là cái nôi của truyền thuyết. Sông núi mang hồn nước, mang đến cho du khách thập phương những câu chuyện nửa hư nửa thực nhưng rất đẹp. Làng Lúa là nơi vua Hùng dạy dân trồng lúa. Các xã ven sông Lô là nơi các Vua Hùng cùng các Lang, Mỵ Nương săn bắn. Làng Hương Trầm, xã Lâu Thượng là nơi Hoàng tử Lang Liêu làm bánh chưng, bánh dày để mừng thọ Vua Hùng.

Ngã ba sông là nơi vua Hùng thứ 18 dựng lầu kén rể chọn chồng cho công chúa, nơi diễn ra cuộc so tài giữa thần núi và thần nước để giành mỹ nhân… “Tháng ba rạo rực lễ hội chùa / Đó là ngày giỗ của bốn ngàn tổ tiên. năm nay”. Về trẩy hội Đền Hùng là để tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, tìm về tuổi thơ trong nôi với lời ru của sông núi mẹ U Cơ; là để nhớ về tổ tiên những người đã từng dựng nước với dấu tích của một thời các Vua Hùng, về với Đền Hùng là trở về với cội nguồn, về với bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, là để cầu chúc những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với tất cả mọi người.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Động Phong Nha

Trong những năm gần đây, ngành du lịch nước ta đang phát triển rất nhanh. Trên khắp đất nước có rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Mỹ Sơn… Trong số đó, động Phong Nha cũng là địa điểm thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước. . Động Phong Nha đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Động Phong Nha nằm trong quần thể hang động của khối núi đá vôi Kẻ Bàng, thuộc địa phận xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Có thể đến động Phong Nha dễ dàng bằng hai cách: nếu thích đi bằng đường thủy thì ngược dòng sông Gianh đến đoạn sông Gianh gặp sông Son rồi men theo sông Son để vào động. Nếu đi đường bộ thì lộ trình đi theo tỉnh lộ 2 đến bến sông Son (đoạn đường này khoảng 20 km). Nhưng dù thế nào thì bạn cũng phải đi xuồng máy hoặc chèo đò từ bến sông Son vào cửa động Phong Nha. Nếu đi thuyền máy từ bến sông Son đến động Phong Nha thì mất khoảng nửa tiếng. Ngồi trên thuyền ngắm dòng sông sâu và rất trong, nhìn những dãy núi đá vôi trùng điệp, làng mạc và những nương ngô rải rác hai bên bờ thật thú vị.

Phong Nha gồm hai phần: động khô và động nước. Động khô ở độ cao khoảng 200m, lúc này chỉ còn những vòm thạch nhũ trắng xóa và vô số cột đá xanh ngọc óng ánh. Nhưng theo các nhà địa lý, trước đây động khô này vốn là một dòng sông ngầm, nay đã cạn khô. Trong động nước vẫn có sông dài ngày đêm chảy. Con sông này rất trong và cũng khá sâu.

Hang nước là một địa điểm hấp dẫn và được du khách lui tới nhiều nhất. Vì hiện nay thủy động còn sông dài, muốn vào phải có thuyền. Nhưng cần lưu ý mang theo đèn, đuốc để thắp sáng vì càng vào sâu trong hang càng ít ánh sáng. Mặc dù một số nơi trong hang đã được nối điện nhưng nếu muốn đi hết 1500m của hang, du khách vẫn cần dụng cụ để thắp sáng.

Động chính Phong Nha có tới 14 buồng nối với nhau bằng hành lang chính dài hơn nghìn mét. ở các khoang phía ngoài có trần thấp, chỉ cách mặt nước khoảng 10m. Từ khoang thứ 4 trở đi, vòm hang cao tới 25-40m. Đến hang cuối cùng, hang thứ mười bốn, bạn có thể tự do khám phá những hàng lớn trong hang sâu trong hành lang hẹp. Nhưng những hang động lớn này mới chỉ được một vài đoàn thám hiểm ghé thăm với đầy đủ trang thiết bị từ máy móc, đèn chiếu sáng, quần áo cho đến thuốc men. Bạn có đủ tự tin để trở thành một nhà thám hiểm vĩ đại? Tuy nhiên, động Phong Nha vẫn còn ẩn chứa nhiều điều kỳ diệu và thú vị đang chờ chúng ta khám phá.

Đi thuyền vào thăm động Phong Nha, chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng và thích thú trước vẻ đẹp kỳ ảo của nó. Dưới ánh đuốc, nhũ đá hiện ra với nhiều màu sắc, hình thù. Những nhũ đá này có đường nét hài hòa, màu sắc huyền ảo, lấp lánh như kim cương. Đặc biệt dưới ánh đuốc, khung cảnh càng hiện lên lung linh, huyền ảo. Trên vách hang, thỉnh thoảng bạn có thể bắt gặp những nhành phong lan rừng rủ xuống xanh mướt. Trong lòng hang còn có một số bãi cát nhỏ, đến đây du khách có thể dừng thuyền để leo lên tham quan, ghi hình, chụp ảnh làm kỷ niệm. Bước vào động Phong Nha, ta cảm nhận được một khung cảnh rất khác: trước mắt ta là những nhũ đá lung linh huyền ảo, ta có thể nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, tiếng nói chuyện vang vọng, cảm nhận được không khí mát mẻ, trong lành. thực sự sảng khoái.

Thật xứng với danh hiệu “Kỳ quan đệ nhất động”, động Phong Nha là một hang động đẹp và tráng lệ. Theo báo cáo khoa học của đoàn thám hiểm Hội Địa lý Hoàng gia Anh, động Phong Nha có bảy cái nhất: Hang dài nhất, miệng hang cao và rộng nhất, bãi cát rộng và đẹp nhất, bãi đá và hồ đẹp nhất. động ngầm đẹp nhất, động khô rộng và đẹp nhất, thạch nhũ tráng lệ và huyền ảo nhất, sông ngầm dài nhất. Để giữ gìn và bảo tồn vẻ đẹp của động Phong Nha, chúng ta phải có ý thức tham gia bảo vệ danh thắng này.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh bên sông Hồng

Đi qua chợ Đồng Xuân quanh năm ồn ào, náo nhiệt, tôi thong thả dạo bước trên cầu Long Biên, phóng tầm mắt nhìn dòng sông Hồng bao la hiền hòa đổ xuống biển. Gió thổi. Tôi hít một hơi thật sâu luồng gió mát vào lồng ngực, những luồng gió đã thổi tung cơ thể đang lớn của tôi suốt thời thơ ấu. Bầu trời thật cao, thật trong lành, bao kỉ niệm xưa chợt ùa về khiến tâm hồn tôi phút chốc như bồng bềnh trôi trên dòng cảm xúc. Gia đình tôi sống trên đường Trần Nhật Duật, nhìn sang bên kia đường là đê ngoài.

Khi đó, chỉ cần trèo qua bờ cỏ cao chừng 4m, bạn sẽ bắt gặp ngay khung cảnh thanh bình, yên ả như ở thôn quê, khác hoàn toàn cuộc sống thị thành. Những bãi cỏ xanh mướt trải dài, những ao hồ quanh bờ dày đặc những bụi tre, chuối, trinh nữ, mâm xôi… Tiếng chim hót líu lo trên đầu, thỉnh thoảng mới gặp một nhóm người đi câu cá. Bên kia bãi cỏ là vành đê trong, đê này nhỏ hơn, được đắp bằng kè cẩn thận. Từ đây, dòng sông Hồng mênh mông mở rộng trước mắt, bãi cát vàng óng ánh, nước sông đỏ như gạch cua, ào ạt chảy về phía đông, ôm ấp, nuôi dưỡng cả một vùng đồng bằng trù phú.

Lũ trẻ chúng tôi thích nhất mùa hè, được nghỉ học, được tự do vui chơi, tung tăng cả ngày trong thế giới cổ tích ấy. Sáng sớm sương còn ướt bãi cỏ, tôi thức dậy chạy ra ven đê vươn vai hít thở không khí trong lành. Buổi trưa nắng gắt, lại xách chai đổ dế về thi thố, rồi tát cá, câu lươn, bắn chim, khát nước thì bẻ bắp non, hít hà,… nhiều trò thú vị. Buổi chiều, cả nhà rủ nhau đi đá bóng hay thả diều, người mệt lử, cơ bắp mỏi nhừ, người bốc hỏa nhưng chỉ cần nhảy xuống sông là lập tức da dẻ mát rượi. Lần đầu biết bơi, tôi phải uống một bụng nước nên hình như nước sông Hồng vẫn còn lẫn trong máu.

Buổi tối, khi cơm nước xong, nhiều người thường trải chiếu trên đê để giải nhiệt. Gió lồng lộng thổi, không gian yên bình, bầu trời trong xanh, sao lấp lánh, cỏ lau thơm ngát, côn trùng không ngừng hót ru em ngủ giữa triền đê, hồn nhiên và trong trẻo. trẻ. Anh tôi cõng tôi về nhà lúc nào mà tôi không hề hay biết. Mùa hè cũng là mùa mưa lũ, lũ từ phương Bắc đổ vào, qua vùng trung du lại hòa nhập với sông Đà, sông Lô càng trở nên hung dữ, ầm ầm đổ xuống, nhấn chìm bãi bồi, sẵn sàng làm vỡ đê.

Mới hôm trước, bãi giữa sông trải dài như sống lưng của một chiếc bè lớn, nhưng hôm sau chỉ còn là một gò đất nhô lên như mai rùa rồi biến mất giữa dòng nước đỏ ngầu dữ dội. Nước. Người dân các làng ven sông và cả thành phố gồng mình chống lũ quyết liệt. Khủng khiếp nhất là hai trận lụt năm 1969 và 1971, nước dâng đến sát mép đê, tưởng chừng sắp cuốn trôi cầu Long Biên. Một ngôi làng rộng lớn với hàng trăm nóc nhà bị xóa sổ. Ai đã có dịp chèo thuyền quanh bãi ngập trong những ngày kinh hoàng ấy hẳn không khỏi chạnh lòng khi nhìn những ngọn cây, những mái nhà nhấp nhô trong biển nước.

Vào mùa khô, nước rút để lại một vùng đất màu mỡ phù sa vàng óng dưới ánh nắng chói chang. Chỉ cần phủi bụi trên mặt cát đã bị gió thổi khô là thấy mặt đất đỏ tươi ướt át như thịt. Những người nông dân bắt đầu rải ngô, đậu, lạc… Không phải cuốc hay bón phân mà mầm cây mọc lên. Cuối vụ, từng bắp ngô to bằng bắp chân, hạt có màu trắng đục, gặm ngập chân răng, vừa ngọt vừa bùi. Cũng vì có nhiều cát nên người ta đào những hố hàm ếch rộng khoảng 1-2m, cát cứ trôi xuống hố. Người đi lấy cát chỉ cần cầm xẻng chất đầy ghe, xuôi về cảng Phà Đen, tập kết thành bãi lớn chờ chủ thầu thu mua rồi vận chuyển đến các công trường trên địa bàn TP.

Bận rộn suốt nửa tháng, sáng sớm tôi theo bạn đánh xe bò ra cảng Phà Đen lấy cát, rồi xuôi về Lĩnh Nam, đi thuyền đến Bát Tràng, làng gốm cách đây 600 năm.

Chẳng mấy chốc, gió mùa đông bắc tràn về, lũ trẻ chúng tôi co ro trong cái lạnh, ít ra bờ sông. Nhưng trong tiết trời u ám, se lạnh ấy, những người bạn của tôi ở Quảng Bá, Nhật Tân vẫn tất bật cùng gia đình chăm sóc hàng ngàn cây đào, quất, hồng môn như con gái, trồng quanh năm chỉ phục vụ cho ba ngày tết. Tết.

Tiết trời ấm dần lên, mưa xuân giăng giăng như sương. Lũ trẻ reo lên: “Tết đến rồi”. Cả bờ sông rực rỡ sắc màu, hương hoa chen chúc nhau: sắc vàng tươi của cúc, sắc tím của lưu ly và violet, những vườn đào bạt ngàn hồng rực như nắng, những cánh đồng cúc vàng bạt ngàn. Thanh niên nam nữ hớn hở dắt nhau đi ngắm, chọn mua hoa, hoa đào hồng như xác pháo, quất tròn trịa, nụ non, trái chín.

Hà Nội ngày càng đẹp, đông đúc hơn, hai bên bờ sông cũng nhộn nhịp hơn. Bên Quảng Bá, Tứ Liên khách sạn, biệt thự cao cấp mọc lên như nấm, bên bãi bồi Nghĩa Dũng, Phúc Xá, nhà cửa, bến bãi, xưởng, chợ chen chúc nhau ra bờ sông, bờ kè. Đất có từ hàng nghìn năm trước, được xây dựng bê tông ngay ngắn. Hà Nội thay đổi từng giờ, nhưng sông Hồng dường như mãi mãi không thay đổi. Vẫn mang nặng phù sa, vẫn bên bờ lở…

Có lẽ từ hàng ngàn năm trước, khi vua Lý Thái Tổ định đô về đây, chắc hẳn ông đã tiên báo về màu Hồng Hà, lợi non sông cho ngàn đời sau. Bất giác ngước mắt nhìn bầu trời xanh thẳm rồi men theo dòng nước ngàn năm “mênh mông đưa cát đến chân làng”, chao ôi, dòng nước đỏ phù sa, dưới buổi sáng mùa thu này như cùng với màu của bầu trời, làm cho bầu trời và mặt nước thêm bao la trong xanh, yên bình và vững chãi. Chẳng cần lên cao hơn, chỉ cần từ Long Biên, Thăng Long hay Chương Dương, nếu nheo mắt để tĩnh tâm lại một chút, bạn cũng như tôi, đều thấy Hồng Hà dịu dàng, thướt tha như tà áo dài Hà Nội, mộc mạc mà giản dị. Kiêu ngạo, yêu kiều, nhưng mạnh mẽ.

Hoàng hôn buông xuống, thành phố bừng lên những ánh đèn ngút mắt, bên dưới, “sông mênh mông như bát hát”.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh – Thuyết minh về danh lam thắng cảnh chùa Bái Đính

Khu tâm linh núi chùa Bái Đính nằm trong Quần thể danh thắng Tràng An, cách thành phố Ninh Bình khoảng 15 km, nằm ở phía Tây của khu di tích lịch sử cố đô Hoa Lư, là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, được biết đến với quy mô lớn nhất Việt Nam. với nhiều kỷ lục như tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á, chuông đồng lớn nhất Đông Nam Á, hành lang có nhiều tượng Phật nhất… là sự tiếp nối tâm linh từ nghìn năm trước đến nghìn năm sau.

Với lối kiến ​​trúc đồ sộ, nguy nga, lộng lẫy, những pho tượng mang dáng vẻ uy nghiêm, bao dung, những nét chạm khắc, đúc đồng tinh xảo, khéo léo, khung cảnh hùng vĩ, sông núi, mây vờn trên đỉnh núi. , không gian tâm linh thanh tịnh bao quanh để mỗi khi bước chân vào đây, con người được thư thái, lòng sáng, tâm thanh tịnh, hướng tới Chân-Thiện-Mỹ.

Đến Bái Đính, ta có thể chiêm ngưỡng ngay trước mắt là Tam Quan hùng vĩ cao gần 17m. Đây là ranh giới giữa thiêng liêng và trần tục. Chỉ cần bước chân qua Tam Quan là người ta có thể hòa mình vào không gian tâm linh thanh tịnh. Kế đến là quả chuông đồng nặng 36 tấn, treo trên tháp cao với âm thanh vang dội, lan tỏa khắp nơi, xua tan mọi đau khổ, cảnh tỉnh chúng sinh.

Dãy hành lang dài với 500 vị La Hán là con đường đưa chúng tôi đến gần hơn với cõi Phật. Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng lớn nhất Việt Nam mang trên mình nhiều nét uy nghiêm, bác ái, mang lại niềm tin vào những điều tốt đẹp cho con người. Một công trình kiến ​​trúc đồ sộ và tinh tế được đặt giữa chốn bồng lai tiên cảnh. Nhìn từ xa, khu chùa Bái Đính như tựa vào sườn đồi xanh mướt. Khung cảnh lung linh, huyền ảo cùng không gian linh thiêng rộng lớn đã biến Bái Đính thành một bức tranh tâm linh cổ kính tuyệt đẹp.

Nói đến Bái Đính là nói đến vùng đất “địa linh – nhân kiệt”. Đây là nơi Quốc sư Nguyễn Minh Không đời Lý tu hành Phật và thờ tự trên đỉnh núi nên đặt tên cho núi và chùa. Dấu chân Thánh Nguyễn dày đặc khắp nơi. Ông sinh ra tại huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Sinh thời, Nguyễn Minh Không là một danh y bậc nhất, một nhà sư tài cao đức độ. Anh phát hiện ra nơi bồng lai tiên cảnh, núi quay mặt về hướng Tây như thể thờ đất Phật, núi rừng bao la với vô vàn cây thuốc quý. Và ông đã dừng chân tại đây để tu hành và biến nơi đây thành “vườn sinh học” (nghĩa là vườn thuốc quý) để cứu sống muôn dân. Ông trực tiếp bốc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh nhờ những loại thuốc quý sẵn có ở đây và một số loại ông mang từ nơi khác về trồng. Qua đây ta thấy sự nghiệp tu hành của Thánh Nguyễn gắn liền với việc “cứu thế”. Ông còn được coi là thần y khi chữa khỏi bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông (1128-1138). Tương truyền: Khi thiền sư Đạo Hạnh sắp xả thân, đã mang thuốc và thần chú đến cho Nguyễn Minh Không và dặn rằng: “20 năm sau, nếu thấy vua bệnh nặng, hãy đến trị. ngay lập tức”. Sau khi thiền sư Đạo Hạnh đầu thai làm Dương Hoan, được vua Nhân Tông lập làm Thái tử, nối ngôi là Lý Thần Tông. Lên ngôi chưa được bao lâu, tháng 3 năm 1136, vua Lý Thần Tông lâm bệnh nặng, toàn thân mọc đầy lông, giọng nói như hổ gầm, quần thần vô cùng sợ hãi. Các bác sĩ tài năng từ khắp nơi trên thế giới đã được triệu tập để chữa trị cho nhà vua, nhưng tình trạng của ông không được cải thiện. Thuở ấy, trong dân gian có câu ca dao của đám trẻ chăn trâu rằng:

“Đệm bông, luyện công vô ích Ở làng Điềm Xá có Nguyễn Minh Không Chữa lành bệnh của Thần Tôn”

Nguyễn Minh Không lúc bấy giờ đang tu ở núi chùa Bái Đính, được mời về kinh trị bệnh cho vua. Khi ông đến, ai cũng nhìn ông với vẻ nghi ngờ, có người chế giễu ông vì vẻ ngoài quê mùa, Nguyễn Minh Không liền lấy một chiếc đinh to dài hơn 5 tấc đóng sâu vào cây cột sắt rồi nói: “Ai kéo ra chiếc đinh này sẽ chữa khỏi bệnh cho nhà vua.” Tất cả các danh y dù trong lòng có chút nghi ngờ, vẫn loay hoay rút chiếc đinh đó ra, nhưng không rút được. Khi ấy, Nguyễn Minh Không chỉ dùng hai ngón tay kẹp chặt rồi nhẹ nhàng rút chiếc đinh ra khỏi cột khiến ai nấy đều kinh ngạc.

Tiếp đó, ông sai đun sôi một vạc dầu lớn, cho một trăm cây kim vào đó và hỏi: “Có ai dùng tay moi hết 100 cây kim bên trong không?”. Tất cả đều lắc đầu sửng sốt. Anh liền thò tay vào vạc dầu sôi, khuấy khoảng ba bốn lần rồi vớt được 100 cây kim. Sau đó, Nguyễn Minh Không lấy dầu sôi tắm cho vua, lấy kim châm vào các huyệt, dầu đổ đến đâu, tóc đổ đến đó. Bệnh liền thuyên giảm. Nhà vua, các quan cũng như những người có mặt đều vô cùng kính phục tài năng của Nguyễn Minh Không.

Sau khi khỏi bệnh, khâm phục tài năng của ông, vua Lý Thần Tông phong ông làm Quốc sư, tha thuế dịch cho mấy trăm hộ. Ông trở thành nhà sư đứng đầu triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cũng là người đầu tiên áp dụng phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Nam và châm cứu. Là một nhân vật có thật, có công lớn chữa bách bệnh cho vua và thần dân nhưng đôi khi lại có những “hành tung” bí ẩn, thật giả nên người Việt suy tôn ông là Thánh Nguyễn.

Không chỉ là một danh y mà Nguyễn Minh Không còn được biết đến là ông tổ của nghề đúc đồng. Ông là người đã góp phần tạo nên “Tứ đại khí” nổi tiếng ở nước ta thời Lý, đó là tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Phật Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh. Tương truyền, ông một mình sang Trung Quốc chữa bệnh cho Thái tử, con trai vua phương Bắc. Nhà vua ban thưởng rất nhiều vàng bạc châu báu, nhưng Nguyễn Minh Không chỉ xin một ít đồng cho đầy túi ba gang. Nhà vua nhìn thấy chiếc túi của anh ta và đồng ý, cho phép anh ta vào kho để lấy đồng. Lạ lùng thay, ông đã gom đủ mười bảo vật bằng đồng mà vẫn còn chưa đầy ba túi gang. Sau đó, anh ta mang túi đồng lên thuyền để trở về nước, nhưng không một chiếc thuyền nào có thể chịu được sức nặng của số đồng mà anh ta mang theo. Vì vậy, ông đã cưỡi chiếc áo tu hành thay vì đi thuyền để trở về cố hương. Trở về nước, Nguyễn Minh Không đem số đồng thu được từ phương Bắc đúc thành bốn bảo vật quý của nước ta: Tháp Báo Thiên cao 20 trượng; gồm 12 tầng với đỉnh tháp hoàn toàn bằng đồng, các tầng còn lại được chạm khắc tinh xảo bằng gạch và đá; chuông Quy Điền nặng gần 8 tấn đồng; Tượng Phật Quỳnh Lâm cao đến 6 thước, vạc Phổ Minh sâu đến 4 thước. Ông là người có nhiều công lao, đóng góp rất tích cực vào sự phát triển của nền văn hóa dân tộc Việt Nam trên các phương diện: y học, kiến ​​trúc và mỹ thuật, là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền văn hóa Việt Nam. Nam, truyền từ đời này sang đời khác. Mang trong mình lòng ngưỡng mộ và biết ơn, nhân dân Ninh Bình, Nam Định cũng như một số tỉnh khác đã đúc tượng, lập đền thờ Đức Thánh Nguyễn trường tồn mãi mãi.

Có thể nói, Bái Đính là nơi hội tụ của hồn sông núi, của tinh thần dân tộc và của những con người kiệt xuất. Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho những người con Ninh Bình những cảnh quan tươi đẹp, nhưng cũng chính con người đã góp phần tôn vinh và làm đẹp thêm cảnh sắc của thiên nhiên. Tất cả những điều đó đã biến Bái Đính trở thành một viên ngọc lấp lánh, đa sắc, tâm linh và huyền thoại.

Mô tả danh lam thắng cảnh chùa Thiên Mụ

Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía Tây. Chùa Thiên Mụ chính – được khởi công xây dựng vào năm Tân Sửu (1601), thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Có thể nói Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất ở Huế.

Vào thời điểm đó, nó chỉ là một ngôi đền nhỏ được xây dựng bởi những người mới di cư đến khu vực này. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, vào năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng đã đến đây ngắm cảnh đẹp và được nhân dân địa phương kể lại rằng: Có một vị tiên mặc áo đỏ quần xanh xuất hiện trên ngọn đồi này và nói rằng sẽ có Vị chúa chân chính đến lập chùa để tụ linh khí cho long mạch trường tồn. Nói rồi nàng tiên biến mất. Dân gian gọi là đồi Thiên Mụ (Thiên Mụ). Thượng đế liền cho dựng nó trên đồi và đặt tên là Linh Mụ Tự. Các chúa sau này như Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687), Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) cũng cho tu sửa, mở rộng chùa thành một ngôi chùa lớn. Năm 1844, vua Thiệu Trị cho xây tháp Phước Duyên.

Năm Giáp Thìn (1904), bão lớn ở Huế làm chùa bị hư hại. Năm 1907 Thành Thái trùng tu, quy mô chùa từ đó không còn rộng lớn như xưa nhưng vẫn cổ kính, trang nghiêm.

Chùa được bao quanh bởi khuôn tường bằng đá trong và ngoài. Khuôn viên chùa được chia thành hai khu vực. Khu vực trước cửa Nghi môn bao gồm các công trình kiến ​​trúc: Bến đúc bê tông có 24 bậc lên xuống, tam quan tứ trụ xây sát trục đường chính, từ tam quan bước lên 15 bậc. hướng lên. Đình Hương Nguyên (nay chỉ còn nền và nền được xây bằng đá thanh), phía sau đình Hương Nguyên là tháp Phước Duyên xây bằng gạch cao bảy tầng, hai bên Hương Nguyên có hai lầu hình tứ giác (xây dựng từ trong năm). thời Triệu Trị nhập thất có hai lầu lục giác – một lầu để bia và một lầu để chuông (xây thời Nguyễn Phúc Chu), bên trong Nghi môn gồm các điện: Đại Hùng, Di Tàng, Quan Âm, các điện. nhà trai, nhà khách, vườn hoa và cuối cùng là vườn thông yên tĩnh.

Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất, có công trình kiến ​​trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất xứ Huế. Vua Thiệu Trị Liệt vào chùa Thiên Mụ là một trong 21 thắng cảnh được thể hiện trong bài thơ Thiên Mụ Chung Thanh. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu mở đại giới đàn rất long trọng tại chùa và mời Thích Đại Sán – một nhà sư người Hoa sang Phú Xuân.

Chùa Thiên Mụ ngày nay vẫn huy hoàng, tráng lệ nhờ công lao trùng tu, xây dựng của nhiều chân tu và đạo hữu gần xa trong mấy chục năm qua.

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Chùa Thiên Mụ

Huế là nơi quy tụ nhiều di tích, chùa chiền cổ kính nổi tiếng của Việt Nam. Nhưng ngôi chùa cổ nhất có lẽ là chùa Thiên Mụ – nơi gắn với câu chuyện ra đời với bước chân khai khẩn của vị chúa Nguyễn đầu tiên của xứ Đàng Trong.

Tương truyền, khi Nguyễn Hoàng làm Tổng trấn Thuận Hóa, ông đã đích thân đi xem xét địa thế nơi đây nhằm chuẩn bị cho âm mưu mở mang kinh nghiệp, xây dựng giang sơn cho họ Nguyễn sau này. Trong một lần cưỡi ngựa dọc bờ sông Hương ngược dòng, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô ra bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như một con rồng đang ngoái đầu nhìn. Hỏi ra mới biết ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương kể rằng vào ban đêm, một bà lão mặc áo đỏ quần xanh sẽ xuất hiện trên đồi và nói với mọi người rằng: “Rồi sẽ có một vị chân chúa đến xây chùa để tụ linh khí, làm cho rồng bền lâu. mạch, vì nước Nam hùng mạnh”. Vì vậy, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn (núi Thiên Mụ). Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như đã đồng điệu với ý dân. Ông dựng một ngôi chùa trên ngọn đồi, quay mặt ra sông Hương, và đặt tên là “Thiên Mụ Tự” (Chùa Thiên Mụ).

Thực tế, nơi đây từng tồn tại một ngôi chùa của người Chăm – di tích được nhắc đến trong sách Ô Châu thực lục của Dương Văn An năm 1553. Nhưng phải đến năm 1601 với quyết định của chúa Nguyễn Hoàng, chùa mới chính thức được xây dựng.

Theo sự phát triển và hưng thịnh của Phật giáo ở Nam Kỳ, chùa được xây dựng lại với quy mô lớn hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Năm 1710, chúa cho đúc một quả chuông lớn có khắc bài minh. Năm 1714, chúa cho trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến ​​trúc vô cùng quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Giảng đường, lầu Tàng Kinh, tăng phòng, nhà Thiền v.v. tồn tại ngày nay. Ông cũng đích thân viết văn bia về việc xây dựng các công trình kiến ​​trúc tại đây, ca ngợi triết lý của đạo Phật, ghi rõ câu chuyện về Hòa thượng Thạch Liêm – người có công lớn giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo. giáo viên ở Nam Kỳ. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn giản nhưng đẹp mắt.

Với quy mô mở rộng và vẻ đẹp tự nhiên, từ đó chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ từng được dùng làm đàn Thổ Công vào thời Tây Sơn (khoảng năm 1788), và được trùng tu, xây dựng lại nhiều lần dưới các đời vua Nguyễn. Năm 1844, nhân lễ mừng “tám mươi thọ” của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị đã cho kiến ​​trúc lại đền. Quy mô lớn hơn: Xây dựng thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyên và dựng 2 bia ghi thơ văn của vua.

Tháp Phước Duyên là biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21m, gồm 7 tầng, được xây dựng phía trước chùa. Mỗi tầng tháp có một tượng Phật. Bên trong có cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây thờ tượng Phật bằng vàng. Trước tháp là đình Hương Nguyên.

Chùa Thiên Mụ được xếp vào 20 thắng cảnh của đất Thần Kinh với bài thơ “Thiên Mụ Chung Thánh” do chính vua Thiệu sáng tác và ghi trên bia đá dựng gần cổng chùa. Năm 1862, vua Tự Đức, để cầu người nối ngôi, sợ chữ Thiên xúc phạm Trời nên đổi chữ Thiên Mụ thành Linh Mụ. Mãi đến năm 1869, nhà vua mới cho phép dùng lại tên Thiên Mụ như cũ. Vì vậy, trong dân gian, người ta vẫn dùng cả hai tên này khi nhắc đến ngôi chùa này.

Một trận bão khủng khiếp vào năm 1904 đã làm hư hại nghiêm trọng ngôi chùa. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyên bị sập hoàn toàn. Qua nhiều lần trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến ​​trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm… cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi lưu giữ nhiều cổ vật. có giá trị không chỉ về mặt lịch sử mà còn về mặt nghệ thuật. Những pho tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Phật Tam Thế… hay những bức hoành phi, câu đối nơi đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của chùa Thiên Mụ.

Trong khuôn viên chùa là vườn hoa được chăm sóc và vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của nghệ sĩ tuồng Việt Nam Đào Tấn được đặt gần xe hơi – di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi phóng hỏa tự thiêu để phản đối đàn áp Phật giáo. của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Cuối khu vườn là tháp mộ của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì chùa Thiên Mụ nổi tiếng, người đã cả đời hoạt động từ thiện cứu người. .

Nằm bên bờ sông Hương thơ mộng của miền Trung, chùa Thiên Mụ với lối kiến ​​trúc cổ kính đã góp phần tô điểm cho bức tranh thiên nhiên nơi đây thêm hữu tình, thơ mộng. Tiếng chuông chùa như linh hồn xứ Huế, ngân vang mãi bên dòng sông Hương chảy trước Đại Nội, xuống cửa biển, để lại một dư âm lưu luyến trong lòng du khách phương xa đến Huế.

Tả cảnh đẹp vịnh Hạ Long

Vịnh Hạ Long là một địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam, với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ ẩn chứa vẻ đẹp huyền ảo và hùng vĩ của tạo hóa. Vịnh có giá trị to lớn đối với ngành du lịch trong và ngoài nước.

Vịnh Hạ Long mang dấu vết của quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất với dấu tích của người Việt cổ, là một kiệt tác của thiên nhiên với tổng diện tích 434 km2, 775 đảo, được khu vực bảo vệ. vùng đệm lớn có diện tích 1.119km2. Hệ sinh thái ở đây rất đa dạng và phong phú với nhiều loài động thực vật quý hiếm. Không những thế, nơi đây còn gắn liền với những giá trị lịch sử, văn hóa hào hùng của dân tộc.

Vịnh Hạ Long được tạo nên bởi các hoạt động địa chất, câu chuyện hình thành Vịnh Hạ Long gắn liền với quá trình giữ nước của dân tộc. Năm đó, biết tin đất nước bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng liền sai Rồng mẹ và Rồng con xuống trần gian giúp dân đánh giặc. Tuy nhiên, sau khi đánh thắng quân thù, hai mẹ con không về trời mà ở lại trần gian. Nơi Rồng mẹ đáp xuống gọi là Hạ Long, nơi Rồng con đáp xuống gọi là Bái Tử Long…(Còn tiếp)

Mô tả danh lam thắng cảnh của phố cổ Hội An

Dọc theo dải đất hình chữ S thân yêu, mỗi tỉnh thành của nước ta sẽ được chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh khác nhau. Thủ đô Hà Nội có hồ Hoàn Kiếm, Ninh Bình có chùa Bái Đính, Tràng An, về Nghệ An, ta sẽ về thăm Nam Đàn quê Bác và khi đến với Quảng Nam – mảnh đất đầy nắng gió, ta sẽ nhớ ngay đến Phố cổ Hội An. Phố cổ Hội An là một danh lam thắng cảnh, một điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.

Như chúng ta đã biết Phố cổ Hội An là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về hướng Đông. Nam giới. Nhìn lại quá trình ra đời, xây dựng và phát triển của Phố cổ Hội An, chắc hẳn ai cũng sẽ không khỏi ngỡ ngàng. Vào thế kỷ 17, 18, Phố cổ Hội An là một trong những trung tâm buôn bán sầm uất nhất cả nước, là thương cảng quốc tế – nơi gặp gỡ, trao đổi, buôn bán của thương nhân Trung Hoa. , Nhật Bản và các nước phương Tây. Trong hai cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nơi đây may mắn không bị chiến tranh tàn phá và kiến ​​trúc, văn hóa nơi đây vẫn còn nguyên vẹn. Ngoài ra, dưới sự tác động của xu thế đô thị hóa trong thế kỷ 20,…(Còn tiếp)

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Núi Voi

Dải đất hình chữ S nằm thoai thoải bên bờ Thái Bình Dương mang tên Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm biến cố lịch sử, tuy nhỏ bé nhưng hùng vĩ. Việt Nam nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, hài hòa giữa thiên nhiên và các giá trị văn hóa truyền thống như Non Nước – Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng hay khu danh thắng Hương Sơn ở Hà Tây. , nay là Hà Nội. Không chịu kém cạnh, Hải Phòng của chúng ta cũng có một danh lam thắng cảnh rất nổi tiếng đó là di tích núi Voi, với vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng và những ngôi chùa cổ kính đã thu hút rất nhiều khách du lịch. khi bạn lần đầu tiên đến.

Di tích núi Voi thuộc xã An Tiến, huyện An Lão, Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 20km, rộng khoảng 300 ha. Có câu ca dao rất hay về di tích núi Voi như sau:

“Kiến An có núi Ông Voi Có sông Văn Úc, có đồi Thiên Văn.”

Nói vậy để biết rằng, di tích núi Voi là một trong những danh thắng cấp quốc gia được xếp hạng sớm nhất của thành phố cảng Hải Phòng, ngày 28-4-1962…(Còn tiếp)

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Chùa Hương

Tôi đã nghe một bài hát mở đầu bằng những câu rất dễ thương và mới mẻ như thế này:

“Hôm qua tôi đi chùa Hương Hoa cỏ còn sương Với cô giáo và mẹ tôi, tôi soi gương bằng cái đầu của mình.”

Tôi cũng đã đọc một bài thơ của Chu Mạnh Trinh rằng:

“Bầu trời, phong cảnh, Thú Hương Sơn ước ao đã lâu. Kìa non, nước, mây, mây, Người đi trước hỏi có phải như vậy không?”

Chung quy lại, cả hai tác phẩm này đều nói về một địa danh rất nổi tiếng, mà dân gian gọi là Chùa Hương, nhưng đây không hẳn là một ngôi chùa riêng biệt mà là một quần thể di tích văn hóa. – Đại đạo gọi là Hương Sơn có tuổi đời lên đến vài trăm năm từ thời vua Lê, chúa Trịnh. Chùa Hương không chỉ mang trong mình vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình như chốn bồng lai tiên cảnh mà còn mang trong mình bầu không khí thanh tịnh, thâm nghiêm của chốn thiền môn. Một khi bước chân đến Hương Sơn, dường như lữ khách cũng bỏ lại sau lưng mọi lo toan trần gian để có thể thảnh thơi chiêm ngưỡng cảnh núi non, chùa chiền, nơi đây được mệnh danh là “Nam Thiên đệ nhất động”… (Còn tiếp)

Thuyết minh về danh thắng Lam Kinh (Thanh Hóa)

Thanh Hóa là vùng đất “hiền tài”, nơi đã sản sinh ra nhiều người con ưu tú của dân tộc như: Bà Triệu, Lê Lợi, Lê Thánh Tông…… Không chỉ được biết đến là một vùng đất trù phú. Nơi đây còn nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, như Hàm Rồng, biển Sầm Sơn,… Khu di tích lịch sử Lam Kinh cũng là một trong những điểm thu hút du khách. khách du lịch ở đây.

Từ trung tâm thành phố Thanh Hóa, bạn mất hơn một giờ đi ô tô theo hướng Tây Bắc để đến Lam Kinh. Khu di tích lịch sử thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân. Mặt phía Bắc của thành quay ra sông Chu, phía Tây là núi Hàm Rồng, phía tả của thành là rừng Phú Lâm và phía hữu là núi Hương. Nơi đây có tổng diện tích hơn 30 ha, bao gồm nhiều đền chùa, lăng tẩm,…

Thành Lam Kinh được xây dựng theo quyết định của vua Lê Thái Tổ. Hơn 10 năm sau chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, nhà vua đóng đô ở kinh thành Thăng Long và có những quyết sách phát triển, xây dựng quê hương, trong đó có quyết định xây thành Lam Kinh trên đất Lam Sơn. …(Còn tiếp)

Thuyết minh về danh lam thắng cảnh chùa Dơi

Có một điều chắc chắn rằng với những ai có niềm yêu thích và đam mê khám phá những công trình kiến ​​trúc tôn giáo độc đáo thì không thể không ngưỡng mộ và ước ao những ngôi chùa có kiến ​​trúc độc đáo, rực rỡ tại xứ sở chùa vàng. Tuy nhiên, đi đâu xa để ngắm một thắng cảnh không phải ai cũng có được, sao ta không tìm về quê hương, về mảnh đất Sóc Trăng màu mỡ, với tiếng hát Dư Kế, điệu múa Lâm Thôn. nét quyến rũ của văn hóa Khmer, thậm chí những ngôi chùa có kiến ​​trúc giống xứ sở chùa vàng thậm chí còn có nhiều nét đặc biệt do sự pha trộn của văn hóa Việt Nam. Trong số những ngôi chùa ở Sóc Trăng, tôi đặc biệt khuyên bạn nên đến chùa Dơi, ngôi chùa có cái tên khá lạ, hiện là điểm tham quan hấp dẫn, thu hút nhiều du khách nhất tỉnh này.

Sở dĩ gọi là chùa Dơi vì chùa được xây dựng bên cạnh một khu rừng trồng nhiều loại cây sao và dầu, môi trường lý tưởng là nơi trú ngụ của hàng nghìn con dơi. bầu trời xung quanh ngôi đền để bắt đầu công việc kiếm ăn. Theo tín ngưỡng của người Khmer, việc đàn dơi tụ tập quanh chùa là điềm lành, điềm lành nên người ta còn gọi chùa Dơi là chùa Dơi, dựa vào đặc điểm này. Ngoài ra, chùa Dơi còn có tên gọi khác là chùa Mã Tộc theo cách đọc của người Hoa, còn theo tiếng Khmer chùa có tên là Seri Te cho mahatup (do Đức Phúc kiến ​​tạo). Hiện nay, chùa tọa lạc trên đường Văn Ngọc Chính,…(Còn tiếp)

Mô tả danh lam thắng cảnh Tháp Đôi (Bình Định)

Bình Định – vùng đất giàu tài nguyên của mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió. Mảnh đất nơi đây được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều cảnh đẹp từ những bãi biển, hòn đảo thơ mộng đến những di tích lịch sử từ ngàn đời nay và Tháp Đôi là một trong những danh lam thắng cảnh độc đáo, nổi tiếng ở Bình Dương. Định.

Tháp Đôi hay còn gọi là tháp Hưng Thạnh là một trong những tháp chàm nổi tiếng ở Bình Định. Tháp Đôi nằm cách trung tâm thành phố khoảng 3 km về phía Tây Bắc, ngay trên đường Trần Hưng Đạo, quận Đống Đa, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo các nhà nghiên cứu, tháp đôi được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 12 đầu thế kỷ 13 với kết cấu kiến ​​trúc độc đáo. Tuy nhiên, trải qua những thăng trầm của lịch sử với những cuộc chiến tranh cam go, ác liệt, Tháp Đôi đã bị hư hại nặng nề và có lúc bị lãng quên. Tuy nhiên, qua nhiều lần trùng tu, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Ba Lan và trong nước, Tháp đôi ngày nay gần như đã được khôi phục lại hình dáng ban đầu. Đặc biệt, tháng 7 năm 1980, Tháp Đôi được xếp hạng di tích quốc gia.

Tháp Đôi tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng 6000m2, xung quanh tháp được bao bọc bởi những khu vườn xanh mát suốt bốn mùa và nổi bật là những loài hoa Chămpa…

************

Trên đây là 46 bài văn mẫu thuyết minh về danh lam thắng cảnh ở địa phương dành cho học sinh lớp 8 ngắn gọn và hay nhất do các thầy cô biên soạn. Hi vọng trên cơ sở này các em sẽ có thêm nhiều gợi ý mới để hoàn thành bài tập của mình một cách tốt nhất. Chúc các bạn học tốt và luôn đạt điểm cao.

Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong

Danh mục: Giáo dục

Related Posts

Review phim Hellraiser – Tuy là phim quái dị nhưng không máu me

Review phim Hellraiser – Tuy là phim quái dị nhưng không máu me Hellraiser 2022 là phần tiếp theo của bộ phim một thời cùng tên nhưng…

nói về sở thích bằng tiếng anh

Bạn thích nghe nhạc, đọc sách hay xem phim? Bạn nào biết cách diễn đạt một đoạn văn nói về sở thích sao cho trôi chảy, mạch…

de thi toán lớp 4 kì 2 năm 2021 có đáp an

Đề thi học kì 2 môn Toán lớp 4 có đáp án chi tiết dành cho các em học sinh lớp 4 ôn thi học kì 2…

trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn

Trò chơi điện tử là trò tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn mải chơi mà sao nhãng việc học và phạm những sai lầm khác. Em hãy…

giáo án tự nhiên xã hội lớp 3

Giáo án Tự nhiên và xã hội lớp 3 Nối kiến ​​thức theo CV 2345 Giáo án Tự nhiên và Xã hội lớp 3 Nối kiến ​​thức…

giá trị nhân đạo vợ chồng a phủ

Đề tài: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *