những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng


CHỦ ĐỀ 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

————-

Giảng viên: TS Phạm Bá Khoa – GVC

  1. Đầu tiên . TÓM TẮT TRIẾT HỌC

1.1. Triết học và những vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

1.1.1. Triết học là gì:

Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII – VI (TCN). Trong tiếng Anh, từ “Philosophy” (triết học) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ, là sự kết hợp của hai từ “Triết học – Tình yêu” và “Sophia – Trí tuệ”. Nghĩa đen: Triết học (philosophia) là yêu sự khôn ngoan.

Triết lý là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó; các vấn đề liên quan đến sự thật, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, luật, ý thức và ngôn ngữ.

Triết học phản ánh thế giới như một chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và trình bày chúng một cách có hệ thống dưới hình thức lý luận.

Nói cách khác Triết lý là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của sự tồn tại và nhận thức, thái độ của con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

1.1.2. Khái niệm cơ bản của triết học

Theo Ăng-ghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại, là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”[1]. Vấn đề này được coi là vấn đề cơ bản của triết học, bởi nó ra đời cùng với sự ra đời của triết học và tồn tại cùng với sự tồn tại của triết học từ khi nó ra đời cho đến nay.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

Mặt đầu tiên trả lời câu hỏi giữa tồn tại (vật chất) và tư duy (ý thức) cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Đối phó với khía cạnh đầu tiên này đã chia các triết gia thành hai trường phái lớn:

  1. Chủ nghĩa duy vật cho rằng tồn tại (vật chất) có trước tư duy (ý thức) và quyết định tư duy (ý thức). Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là thứ nhất, ý thức là thứ hai; vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức.
  2. Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm cho rằng suy nghĩ (ý thức) có trước sự tồn tại (vật chất) và quyết định sự tồn tại (vật chất). Nói cách khác, chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần; thức là thứ nhất, vật chất là thứ hai; Ý thức có trước và quyết định vật chất.

Mặt thứ hai trả lời câu hỏi tư duy của con người (ý thức) có phản ánh được tồn tại (vật chất) hay không? Nói cách khác, con người có khả năng nhận thức thế giới không? Ở đây lại chia làm hai thuyết: Thuyết bất khả tri (có thể biết) và thuyết: Thuyết bất khả tri (không thể biết) phủ định, nghi ngờ khả năng nhận thức thế giới của con người. Sự phát triển của khoa học (từ cách mạng 1.0 đến nay là 4.0) và thực tiễn con người đã bác bỏ thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri.

1.2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học

1.2.1. Chức năng thế giới quan

Thế giới quan là một hệ thống các quan điểm về thế giới, về bản thân con người và vị trí của họ trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, tức là triết học quan niệm thế giới bằng hệ thống lý luận của mình.

Thế giới quan triết học có chức năng định hướng hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Trong triết học có hai thế giới quan đối lập nhau về cơ bản là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.

1.2.2. chức năng phương pháp luận

Cùng với thế giới quan, triết học còn có chức năng phương pháp luận. Phương pháp là những nguyên tắc, cách thức tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Phương pháp luận là học thuyết về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xác định phương pháp, phạm vi áp dụng phương pháp, v.v… cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Chức năng phương pháp luận của triết học thể hiện ở chỗ, nó chỉ ra cho chủ thể phương pháp xem xét, nhận thức và cải tạo thế giới. Trong triết học có hai phương pháp đối lập nhau là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển. Phương pháp siêu hình coi sự vật, hiện tượng ở trạng thái cô lập, tĩnh tại, bất biến, đứng yên.

  1. chủ nghĩa duy vật mácxít CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ TIN CẬY VÀ CẢI THIỆN THỰC HÀNH

2.1. Quan điểm duy vật của Mác về vật chất

Vật chất là phạm trù cơ bản, là nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Cũng như các phạm trù khác của triết học duy vật, nội dung của phạm trù vật chất luôn được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển của khoa học, thực tiễn và nhận thức của con người. Kế thừa những thành tựu của các nhà duy vật trong lịch sử, đặc biệt là quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất, V.I. Lênin đã đưa ra một định nghĩa nổi tiếng về vật chất: “Vật chất là một phạm trù của vật chất. Thuật ngữ triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong các giác quan, được cảm giác của chúng ta sao chép, chụp lại, phản ánh và tồn tại độc lập với cảm giác.

Vật chất trong định nghĩa của V.I. Lênin phải được hiểu theo nghĩa triết học, tức là nó có tính khái quát cao, phản ánh toàn bộ những tồn tại cụ thể của vật chất. Vật chất có nhiều thuộc tính, nhưng thuộc tính cơ bản nhất là “thực tại khách quan, – tức là cái tồn tại khách quan, độc lập với con người và ý thức của con người. Thuộc tính này là tiêu chí cơ bản để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không”. V.I.Lênin định nghĩa của vật chất cũng khẳng định tư duy của con người có thể nhận thức được vật chất.

2.2. Quan điểm duy vật của Mác về ý thức

Những người duy tâm cho rằng ý thức “sinh ra” từ vật chất, quyết định vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất. Chủ nghĩa duy vật mácxít khẳng định ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. nguồn gốc tự nhiên thể hiện ở chỗ ý thức là một thuộc tính phản ánh của bộ não con người. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ thấp đến cao (phản ánh vật chất, phản ánh sinh vật với các hình thức như kích thích, cảm ứng; phản ánh tâm lý động vật; phản ánh ý thức con người).

Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ não con người (có tới 14 tỷ tế bào thần kinh). Chính bộ não con người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não con người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Như vậy, không có bộ não con người không thể có ý thức.

Nguồn gốc xã hội của ý thức thể hiện ở chỗ phải có lao động và cùng với lao động, ngôn ngữ thì phải có ý thức. Chính lao động đã đóng vai trò quyết định trong việc biến vượn người thành người; giúp trí não phát triển, làm nảy sinh ngôn ngữ. Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp sự ra đời của ý thức con người.

Về bản chất, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não con người. Ý thức là hình ảnh của sự vật được tạo thành trong bộ não con người. Nhưng đây là sự phản ánh năng động, sáng tạo; phản ánh có chọn lọc, phản ánh cái cơ bản nhất mà mọi người quan tâm; là sự phản ánh không phải nguyên bản mà còn được cải biến trong bộ não con người. Phản ánh của ý thức có thể là sự phản ánh trước hiện thực, có thể dự báo xu hướng biến đổi của hiện thực; ý thức là ý thức của con người, mà con người là con người hiện thực của một xã hội cụ thể. Vì vậy, ý thức bao giờ cũng có bản chất xã hội.

2.3. Quan điểm duy vật của Mác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Khẳng định vật chất có trước ý thức, quyết định ý thức, ý thức là cái được phản ánh, do đó cái có sau là cái bị quy định. Như trên đã nói, ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức đặc biệt, có tổ chức cao. Doa là bộ não của con người. Vì vậy, không có bộ não con người không thể có ý thức. Hơn nữa, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

Vật chất còn là cơ sở và nguồn gốc của những nội dung mà ý thức phản ánh. Tức là vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức.

Chủ nghĩa duy vật của Mác cũng cho rằng, mặc dù vật chất quyết định ý thức nhưng ý thức cũng có tính chất năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể tác động trở lại vật chất bằng hoạt động của con người. cách thúc đẩy hoặc hạn chế ở mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp phần cải tạo thế giới khách quan. Tuy nhiên, sự trở lại của ý thức đối với vật chất, dù sao, vẫn phụ thuộc vào điều kiện vật chất. Vì vậy, xét đến cùng, vật chất bao giờ cũng quyết định ý thức.

2.4. Ý nghĩa của quan điểm duy vật của Mác về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong nhận thức và cải tạo hiện thực

Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, triết học Mác rút ra quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức phải nhận thức sự vật đúng như bản chất của nó, không được “tô hồng, bôi đen”.

Trong hoạt động thực tiễn phải luôn: Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng các quy luật khách quan và hành động theo các quy luật khách quan; không thể thay thế cho hiện thực khách quan hay mong muốn chủ quan, không thể hành động trái pháp luật có trước. Vì điều đó sẽ phải trả giá.

Ở góc độ khách quan cũng đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần trong cải tạo thế giới. Nghĩa là phải cố gắng, tích cực vươn lên, biết phát huy tối đa lực lượng vật chất sẵn có. Đồng thời phải tránh sa ngã, khách quan tức là trông chờ, thụ động, ỷ lại vào điều kiện khách quan, không cố gắng, tích cực khắc phục khó khăn vươn lên.

  1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỐI THOẠI VẬT LIỆU

Theo Ph.Ăngghen, “phép biện chứng chỉ là khoa học về những quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tự lực”[3]. Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Vì phép biện chứng duy vật là cơ sở khoa học xác định phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực.

3.1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

3.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Các nhà triết học siêu hình nói chung không nhìn thấy mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng, nếu có, theo họ, đó chỉ là mối liên hệ ngẫu nhiên, bề ngoài. Các nhà triết học duy tâm tuy nhìn thấy được mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng nhưng lại cho rằng ý thức và tinh thần là cơ sở của mối quan hệ này.

Chủ nghĩa duy vật mácxít cho rằng giữa các sự vật, hiện tượng luôn có sự tác động, ảnh hưởng, chi phối,… Trên cơ sở đó, theo triết học duy vật mácxít: Liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, ảnh hưởng, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.

Liên hệ phổ biến là khái niệm cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư tưởng) đều đa dạng, phong phú nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Cơ sở của mối quan hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.

Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là khách quan, vì nó là cái vốn có của sự vật, không có cái nào gắn với sự vật. Mối liên hệ đó có tính phổ biến, tức là nó tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Đồng thời, mối liên hệ rất đa dạng và phong phú, tức là có mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài; mối quan hệ thực chất – không bản chất; tất nhiên là sự kết nối – tình cờ…

Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra như sau: Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người cần phải có quan điểm toàn diện. Nội dung của nó là khi xem xét, đánh giá sự vật phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố của nó nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm; xét sự vật trong mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác

3.1.2. Nguyên tắc phát triển

Chủ nghĩa duy vật siêu hình coi sự phát triển đơn thuần chỉ là sự tăng lên về lượng. Chủ nghĩa duy tâm thừa nhận sự phát triển nhưng cho rằng ý thức, tinh thần là động lực, nguyên nhân của sự phát triển. Chủ nghĩa duy vật mácxít coi sự phát triển là sự vận động đi lên từ thấp đến cao, từ chỗ chưa hoàn thiện đến chỗ hoàn thiện hơn. Phát triển không chỉ là sự gia tăng về số lượng mà còn là bước nhảy vọt về chất lượng. Nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong sự vật có điều kiện. Sự phát triển là khách quan, phổ biến và có nhiều hình thức cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, trong giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở sự tăng khả năng thích nghi của cơ thể với môi trường; ở khả năng tự tái tạo với mức độ ngày càng hoàn thiện. Trong xã hội, sự phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để phục vụ con người. Trong tư duy, sự phát triển thể hiện ở chỗ ngày càng hoàn thiện và đúng đắn hơn.

Tham Khảo Thêm:  ✓ Bài tập có đáp án chi tiết về nguyên phân môn sinh học lớp 10

Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra như sau: Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người cần phải có quan điểm phát triển. Trong nhận thức, khi nhận thức, đánh giá sự vật, hiện tượng không chỉ nhận thức nó như hiện tại mà còn phải thấy được xu hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Trên cơ sở đó, dự báo các tình huống có thể xảy ra để chủ động nhận thức và giải quyết.

Trong hoạt động thực tiễn, cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn vận động, biến đổi và phát triển. Phát triển là khó khăn, trong đó có cả những bước thụt lùi, vì vậy trong hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai.

3.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

Thể loại là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và chung nhất của các sự vật, hiện tượng trong một lĩnh vực nhất định. Mỗi ngành khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng, phản ánh những mối liên hệ cơ bản, phổ biến trong phạm vi của ngành khoa học đó. Ví dụ, toán học có các loại “số lượng”; “Constan”; “điểm”; “đường thẳng”, v.v. Trong kinh tế chính trị có các phạm trù “hàng hóa”, “giá trị”, “giá trị trao đổi”, v.v.

thể loại triết học là những khái niệm chung nhất, rộng nhất phản ánh những mặt, những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chẳng hạn, các phạm trù “vật chất”, “ý thức”, “vận động”, “đứng yên” v.v… phản ánh những mối liên hệ phổ biến không chỉ của tự nhiên mà còn của xã hội, của tư duy con người. Phạm trù triết học khác với phạm trù của các khoa học khác ở chỗ nó có tính tất định về thế giới quan và tính tất định về phương pháp luận.

Các phạm trù của phép biện chứng duy vật có tính biện chứng, tức là nội dung mà phạm trù phản ánh luôn vận động và phát triển; các phạm trù có thể xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau và là công cụ nhận thức, đánh dấu trình độ nhận thức của con người.

3.2.1. Cái riêng và cái chung

3.2.1.1. Khái niệm cái riêng và cái chung

Cái riêng tư là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, quá trình hay hệ thống các sự vật tạo thành một chỉnh thể tồn tại độc lập với các sự vật khác. Ví dụ, một người cụ thể, một tác phẩm văn học cụ thể, chẳng hạn như “Chiến tranh và hòa bình”; một ngôi nhà cụ thể, vv

Chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính giống nhau được lặp lại ở nhiều sự vật riêng lẻ khác. Ví dụ: một thuộc tính là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả một quốc gia, dân tộc hay thủ đô.

độc đáo nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những đặc điểm, tính chất chỉ vốn có của một sự vật, hiện tượng, quá trình và không thể lặp lại ở cá thể khác. Ví dụ: dấu vân tay, số điện thoại của mỗi người (kể cả mã vùng, mã quốc gia luôn là duy nhất) v.v.

3.2.1.2. Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng

Cái riêng và cái chung không thể tách rời nhau. Không có cái chung nào tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng, mà cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Chẳng hạn, thuộc tính chung là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả một quốc gia hay một dân tộc, của một thủ đô chỉ tồn tại qua từng thủ đô cụ ​​thể như Hà Nội, Mát-xcơ-va, Viêng Chăn, Phnôm Pênh…

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, vì bất kỳ cái riêng nào cũng tồn tại trong mối quan hệ với những cái riêng khác. Giữa các chi tiết luôn có sự tương đồng. Ví dụ, trong một lớp học có 30 học sinh, mỗi học sinh được coi như “một cá nhân”; 30 học sinh này (30 riêng biệt) quan hệ với nhau và sẽ dẫn đến những điểm chung: đồng hương (cùng quê), đồng tuổi (cùng năm sinh), đồng môn (cùng dưới một thầy), đều là con người, đều là học sinh, v.v.

– Cái chung là một bộ phận của cái riêng, cái riêng không hoàn toàn ăn nhập với cái chung. Vì vậy, cái riêng phong phú hơn cái chung. Tuy nhiên, cái chung sâu sắc hơn cái riêng. Chẳng hạn, đặc điểm chung của thủ đô là thuộc tính “trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước”. Nhưng, mỗi thủ đô cụ ​​thể lại có nhiều nét độc đáo khác về diện tích, dân số, vị trí địa lý, v.v.

– Cái thống nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Bởi vì, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay lập tức mà ban đầu xuất hiện dưới dạng đơn lẻ. Dần dần, cái chung xuất hiện thay thế cái riêng. Ngược lại, cái cũ thường là cái chung lúc đầu, nhưng do những yếu tố không còn phù hợp nên cái mới mất dần tình trạng và trở thành cái riêng.

3.2.1.3. Một số kết luận về phương pháp luận

Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Vì vậy, để tìm ra cái chung cần phải xuất phát từ nhiều cái riêng, thông qua cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn cần lưu ý, nắm cái chung là chìa khóa để giải quyết cái riêng.

Cái chung không nên tuyệt đối hóa (rơi vào giáo điều); cũng không nên tuyệt đối hóa (rơi vào xét lại). Khi vận dụng cái chung vào cái riêng phải xuất phát và vận dụng từ cái riêng, tránh giáo điều.

Trong hoạt động thực tiễn phải tạo điều kiện để cái có lợi cho người dần trở thành cái chung và ngược lại, cái chung không có lợi trở thành cái riêng.

3.2.2. Lý do và kết quả

3.2.2.1. Khái niệm về nguyên nhân và kết quả

Lý do là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt, các bộ phận, các thuộc tính trong một sự vật hoặc giữa các sự vật gây ra sự biến đổi nhất định.

Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xảy ra do nguyên nhân. Ví dụ, sự tương tác giữa các yếu tố trong hạt ngô chịu trách nhiệm cho sự nảy mầm của hạt ngô thành cây ngô. Sự tương tác giữa điện, xăng, không khí, áp suất v.v… (nguyên nhân) gây ra (kết quả) nổ cho động cơ.

Nguyên nhân là những sự vật, hiện tượng xuất hiện đồng thời do cùng một nguyên nhân nhưng chỉ có mối liên hệ bề ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết quả. Chẳng hạn, Mỹ lợi dụng cái cớ chống khủng bố và cho rằng Iraq có vũ khí hủy diệt hàng loạt để tiến hành chiến tranh xâm lược Iraq. Trên thực tế, Iraq không liên quan gì đến chủ nghĩa khủng bố và cũng không có vũ khí hủy diệt hàng loạt như các thanh sát viên Liên hợp quốc đã kết luận.

Triết học duy vật biện chứng cho rằng mối liên hệ nhân quả có các tính chất: tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu.

3.2.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

Nguyên nhân là cái tạo ra kết quả, vì vậy nguyên nhân luôn có trước kết quả về mặt thời gian. Tuy nhiên, không phải tất cả sự kế thừa thời gian đều là nhân quả. Ví dụ, ngày và đêm không loại trừ lẫn nhau. Sấm sét không phải là nguyên nhân của nhau. Để phân biệt giữa nguyên nhân và kết quả, chúng ta phải đi tìm mối quan hệ sản xuất, nghĩa là cái nào sinh ra cái nào. Một nhân có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau tùy theo điều kiện cụ thể, chẳng hạn: gạo, nước đun sôi có thể biến thành cơm, thành cháo… tùy theo nhiệt độ, mức nước, cách nấu, v.v… mà một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, chẳng hạn ví dụ: sức khỏe của chúng ta tốt là do tập thể dục, ăn uống hợp lý, chăm sóc y tế tốt, v.v., chứ không phải chỉ một nguyên nhân.

– Trong những điều kiện nhất định, nhân quả có thể chuyển hóa cho nhau. Đó là, trong mối quan hệ này được coi là nguyên nhân, trong mối quan hệ khác có thể là kết quả. Ví dụ, làm việc chăm chỉ là nguyên nhân của thu nhập cao. Thu nhập cao là lý do để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của bạn.

– Kết quả, sau khi xuất hiện lại tác động trở lại nguyên nhân (hoặc thúc đẩy nguyên nhân tác động theo chiều hướng tích cực, hoặc ngược lại). Ví dụ, nghèo đói, mù chữ làm tăng dân số, ngược lại, tăng dân số làm tăng nghèo đói, mù chữ, v.v.

3.2.2.3. Một số kết luận về phương pháp luận

Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối quan hệ nhân quả. Ý chí chủ quan không được thay thế cho quan hệ nhân quả. Để một hiện tượng xảy ra thì phải tạo ra những nguyên nhân và những điều kiện để những nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, để một hiện tượng mất đi thì cần phải làm mất đi nguyên nhân tồn tại của nó cũng như những điều kiện để những nguyên nhân đó phát huy tác dụng.

– Phải biết đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề phát sinh vì các nguyên nhân có vai trò khác nhau. Nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến kết quả; Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn cần khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để phát huy những nguyên nhân tác động theo hướng tích cực phục vụ con người.

3.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên

3.2.3.1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên

Tất nhiên rồi là phạm trù triết học dùng để chỉ cái được quy định bởi nguyên nhân chủ yếu bên trong sự vật và trong những điều kiện nhất định, nó phải diễn ra như vậy chứ không thể khác được.

Lưu ý: Tất nhiên là có mối quan hệ với cái chung, nhưng không phải cái chung nào cũng chắc chắn. Tất nhiên có nguyên nhân liên quan, nhưng tất nhiên không phải là nguyên nhân. Hơn nữa, không chỉ tất nhiên mà ngẫu nhiên cũng có nguyên nhân. Do đó, không nhất thiết phải xác định nguyên nhân.

Ngẫu nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái được quy định không phải do cấu tạo bản chất bên trong sự vật mà do nguyên nhân bên ngoài sự vật, do sự trùng hợp ngẫu nhiên của các hoàn cảnh bên ngoài sự vật. Ví dụ trồng hạt ngô (tất nhiên) phải trồng cây ngô chứ không trồng cây khác. Nhưng cây ngô tốt hay xấu là do chất đất, thời tiết, độ ẩm bên ngoài hạt ngô quyết định. Đây là một trong những ngẫu nhiên.

3.2.3.2. Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và ngẫu nhiên

– Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và có vị trí nhất định trong quá trình phát triển của sự vật. Cả tự nhiên và ngẫu nhiên đều quan trọng đối với mọi thứ. Tuy nhiên, cái tự nhiên đóng vai trò chi phối sự vận động và phát triển của sự vật, cái ngẫu nhiên làm cho sự vật phát triển nhanh hơn hoặc chậm hơn. Ví dụ, đất và thời tiết không quyết định sự nảy mầm của hạt ngô trên cây ngô, nhưng đất và thời tiết có tác động làm cho hạt ngô nảy mầm nhanh hay chậm thành cây ngô.

– Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất này được thể hiện ở:

Một là, tự nhiên luôn đi qua vô số các tình huống ngẫu nhiên. Nói cách khác, cái tự nhiên luôn thể hiện sự tồn tại của nó thông qua vô số ngẫu nhiên.

Hai là, Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tự nhiên, bên ngoài cái tự nhiên.

Ba là, Không có quy luật thuần túy nào tách biệt với ngẫu nhiên, cũng như không có cơ hội thuần túy nào tách biệt với tự nhiên. Ví dụ, sự xuất hiện của các vĩ nhân trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu của lịch sử. Nhưng nhân vật vĩ đại đó là ai là ngẫu nhiên vì nó không do yêu cầu lịch sử quyết định mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác để đưa một nhân vật lên đỉnh cao của phong trào. Nếu chúng ta loại bỏ nhân vật này, chắc chắn sẽ có người khác thay thế.

– Tất nhiên và ngẫu nhiên trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hóa cho nhau. Điều gì, trong một mối quan hệ được coi là hiển nhiên, trong một mối quan hệ khác có thể được coi là hiển nhiên. Ví dụ, trao đổi hàng hóa là tự nhiên trong nền kinh tế hàng hóa, nhưng là ngẫu nhiên trong các xã hội nguyên thủy – khi nền sản xuất hàng hóa chưa phát triển. Vì vậy, ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên cũng có tính chất tương đối. Thông qua một mối quan hệ là tự nhiên, nhưng thông qua một mối quan hệ khác là tình cờ và ngược lại. Chẳng hạn, một chiếc đài dùng lâu thì “đương nhiên” sẽ hỏng mãi, nhưng hỏng lúc nào và vào thời điểm nào là “ngẫu nhiên”.

3.2.3.3. Một số kết luận về phương pháp luận

Cái tự nhiên luôn biểu hiện sự tồn tại của nó thông qua cái ngẫu nhiên. Vì vậy, muốn hiểu cái tự nhiên phải bắt đầu từ cái ngẫu nhiên, thông qua cái ngẫu nhiên.

Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái tự nhiên, không dựa vào cái ngẫu nhiên. Bởi vì, cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất của sự vật, còn cái tự nhiên gắn với bản chất của sự vật.

– Tất nhiên và cơ hội có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện thích hợp nhất định. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn cần tạo ra những điều kiện thích hợp để ngăn chặn hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa đó theo hướng có lợi cho con người. Chẳng hạn, dựa vào mối quan hệ tự nhiên và ngẫu nhiên này, người ta có thể uốn cây cảnh theo con vật yêu thích, bác sĩ có thể kẹp răng trẻ em để răng đều và đẹp, v.v.

Tham Khảo Thêm:  ✓ [Thủ thuật Excel] Mẹo tính số tuổi bằng công thức siêu nhanh trong Excel! #Shorts

3.2.4. Nội dung và hình thức

3.2.4.1. Khái niệm nội dung và hình thức

Nội dung là phạm trù triết học chỉ tổng hợp các mặt, các yếu tố, các quá trình cấu tạo nên sự vật.

Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của sự vật. Ví dụ chữ “ANH” gồm các chữ cái “A; N; H”, và hình thức là các chữ cái phải được sắp xếp theo thứ tự ANH; giữa 3 chữ cái này có mối quan hệ tương đối ổn định, nếu đảo ngược cách sắp xếp thì sẽ không còn là chữ ANH mà trở thành một chữ cái khác ( Ví dụ thành chữ NHA, HAN hay HNA).

3.2.4.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Có sự thống nhất hữu cơ giữa nội dung và hình thức. Biểu hiện:

– Không có hình thức nào không chứa đựng nội dung, cũng như không có nội dung nào không tồn tại trong một hình thức nhất định.

– Nội dung nào thì sẽ có hình thức tương ứng, các yếu tố cấu thành cái đó vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tạo nên hình thức. Vì vậy, nội dung và hình thức không tách rời nhau mà gắn bó chặt chẽ với nhau.

Nội dung đóng vai trò quyết định hình thức trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong mối quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức.

Nội dung và hình thức có tính độc lập tương đối với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ: Một nội dung có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ, một chiếc bánh chưng (gồm nếp, thịt lợn, đậu xanh, lá dong, lạt…) có thể được gói hình vuông (miền Bắc), gói bằng lá dong, buộc bằng lạt. Có thể gói theo hình thức bánh tét tròn, dài (miền Nam) cũng có thể gói bằng lá dong, buộc lạt (hình chiếc nem).

– Cùng một hình thức nhưng có thể có nội dung khác nhau. Như chiếc bánh chưng chẳng hạn, hình vuông nhưng bên trong có thể có thịt, có tiêu, hành, chút muối; hoặc có thể chỉ gói bằng đậu xanh với đường… nội dung cũng khác nhau. Hơn nữa, hình thức cũng tác động trở lại nội dung, nhất là hình thức mới ra đời theo hướng hoặc tạo điều kiện hoặc kìm hãm sự phát triển của nội dung.

3.2.4.3. Một số kết luận về phương pháp luận

Vì về cơ bản nội dung và hình thức luôn thống nhất với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần chống khuynh hướng tách nội dung ra khỏi hình thức cũng như tách hình thức ra khỏi nội dung. Phải biết vận dụng sáng tạo nhiều hình thức khác nhau vào hoạt động thực tiễn. Vì cùng một nội dung có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau; đồng thời, phải chống chủ nghĩa hình thức.

Vì nội dung quyết định hình thức, mà hình thức có ảnh hưởng quan trọng đến nội dung. Vì vậy, nhận thức sự vật phải bắt đầu từ nội dung nhưng không được xem nhẹ hình thức. Phải thường xuyên đối chiếu, xem xét nội dung và hình thức có phù hợp với nhau không để chủ động thay đổi hình thức cho phù hợp. Khi hình thức đã lỗi thời thì phải đổi mới cho phù hợp với nội dung mới, tránh bảo thủ.

3.2.5. Bản chất và hiện tượng

3.2.5.1. Khái niệm về bản chất và hiện tượng

Thiên nhiên là phạm trù triết học chỉ tổng hợp các mặt, những mối liên hệ tự nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật đó. Bản chất gắn liền với cái chung nhưng không phải cái chung nào cũng là bản chất. Bản chất và quy luật là những phạm trù có cùng cấp độ, nhưng bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật. hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.

3.2.5.2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

Bản chất và hiện tượng thống nhất trong sự vật. Điều này chứng tỏ:

– Bản chất bao giờ cũng được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất

– Không có bản chất thuần túy nào tách rời hiện tượng và ngược lại, không có hiện tượng nào không biểu hiện bản chất nhất định.

– Bản chất khác nhau sẽ biểu hiện qua hiện tượng khác nhau.

Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất bao hàm mâu thuẫn. Điều này thể hiện ở:

Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, hiện tượng phong phú hơn bản chất.

– Bản chất tương đối ổn định, sự thay đổi lâu dài, hiện tượng thay đổi nhanh hơn bản chất.

– Bản chất ẩn chứa bên trong, hiện tượng bộc lộ ra bên ngoài. Bản chất không bộc lộ hết ở một hiện tượng mà ở nhiều hiện tượng khác nhau.

3.2.5.3. Một số kết luận về phương pháp luận

Bản chất là cái tiềm ẩn bên trong hiện tượng. Vì vậy, nhận thức sự vật phải đi sâu tìm ra bản chất chứ không dừng lại ở hiện tượng. Phải đi từ bản chất cấp 1 đến bản chất sâu hơn, v.v.

– Bản chất không tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng. Vì vậy, việc tìm ra bản chất phải thông qua nghiên cứu hiện tượng. Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất để chỉ đạo hoạt động, không dựa vào hiện tượng.

Muốn cải tạo sự vật thì phải thay đổi bản chất của nó chứ không phải thay đổi hiện tượng. Bản chất có thể thay đổi thì hiện tượng cũng sẽ thay đổi theo. Đây là một quá trình phức tạp, không được chủ quan, hấp tấp.

3.2.6. Khả năng và Thực tế

3.2.6.1. Khái niệm về khả năng và thực tế

Thực tế là phạm trù triết học dùng để chỉ tất cả những gì thực sự tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ những xu hướng còn là mầm mống, tồn tại thực tế trong sự vật, mà trong quá trình vận động của chúng sẽ xuất hiện khi có những điều kiện tương ứng. Ví dụ, cây ngô phát triển từ hạt ngô là một thực tế. Hạt ngô chứa khả năng nảy mầm thành cây ngô. Khi có điều kiện thích hợp về nhiệt độ, độ ẩm… cây ngô sẽ phát triển.

Có loại gần và xa; khả năng tự nhiên và khả năng ngẫu nhiên

3.2.6.2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

– Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ không thể tách rời, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.

Điều này muốn nói rằng, trong cùng một điều kiện, mỗi sự vật có thể có một số khả năng khác nhau (tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể). Khi thực tế mới xuất hiện, những khả năng mới nảy sinh bên trong nó. Những khả năng mới này, dưới những điều kiện cụ thể phù hợp, sẽ trở thành hiện thực mới.

– Trong tự nhiên, khả năng trở thành hiện thực xảy ra một cách tự phát, tức là không có sự can thiệp của con người. Trong xã hội, bên cạnh những điều kiện khách quan, khả năng trở thành hiện thực phải thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người.

Bên cạnh những khả năng vốn có, trong những điều kiện mới, sự vật sẽ xuất hiện thêm nhiều khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng biến đổi theo sự thay đổi của điều kiện. Để một khả năng trở thành hiện thực thường không chỉ cần một điều kiện mà là một tập hợp các điều kiện. Ví dụ, để hạt ngô nảy mầm thì các điều kiện về độ ẩm, nhiệt độ, áp suất, v.v.

3.2.6.3. Một số kết luận về phương pháp luận

– Khả năng là khả năng của sự vật, cho nên việc tìm khả năng của sự vật phải tìm trong bản thân sự vật, không tìm khả năng của sự vật ở bên ngoài nó.

– Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào thực tế chứ không dựa vào khả năng, tất nhiên phải tính đến khả năng. Thực tiễn là cái đã có, hiện có, nó quyết định sự vận động, phát triển của sự vật. Sự việc đồng thời có nhiều khả năng xảy ra, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần tính đến mọi khả năng có thể xảy ra để có cách giải quyết phù hợp, chủ động.

3.3. CÁC QUY TẮC ĐỐI THOẠI CƠ BẢN

3.3.1. Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật

3.3.1.1. Khái niệm “quy tắc”

Quy tắc là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các sự vật và hiện tượng, giữa các thuộc tính của sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật.

3.3.1.2. phân loại quy tắc

Căn cứ vào mức độ phổ biến được chia thành: luật riêng, luật chung và luật chung. Căn cứ vào lĩnh vực tác động, người ta chia thành: quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, quy luật tư duy.

Nghiên cứu duy vật biện chứng 03 những quy luật phổ biến nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Các quy luật này phản ánh sự vận động và phát triển của sự vật ở những mặt cơ bản nhất.

* Quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển của sự vật.

* Quy luật phủ định của phủ định Nêu khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng

3.3.2. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại (Quy luật lượng và sự thay đổi)

3.3.2.1. Ý tưởng

Vấn đề là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm nên bản chất của sự vật chứ không phải cái khác; ví dụ, cái bàn, cái ghế, v.v.

Để hiểu chất là gì cần hiểu thuộc tính là gì? Thuộc tính chất là một khía cạnh nhất định của chất lượng của một sự vật được bộc lộ khi tương tác với những sự vật khác. Mỗi thứ có nhiều thuộc tính. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo nên chất cơ bản của sự vật. Như vậy, vật cũng có nhiều chất. Bản chất của sự vật là khách quan, vì nó là bản chất của sự vật, không do ai quy kết cho sự vật. Nó được xác định bởi các thuộc tính của sự vật.

Số lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về quy mô, trình độ phát triển, biểu hiện số lượng thuộc tính, yếu tố cấu thành của sự vật. Lượng được biểu hiện là số lượng, số lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu của sự vận động và phát triển. Ví dụ: chỉ kích thước dài hay ngắn, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm v.v… Ví dụ khi nói sinh viên năm hai, sinh viên là phẩm chất để phân biệt. họ từ công nhân, binh lính, còn năm thứ hai là số lượng, biểu thị trình độ của sinh viên.

Lượng là tính khách quan vốn có của sự vật. Đối với những sự vật liên quan đến tình cảm, nhận thức định lượng không thể xác định bằng số lượng, mà phải trừu tượng hóa bằng định tính. Ví dụ, lòng tốt, tình yêu, v.v.

Lưu ý rằng sự khác biệt giữa chất lượng và số lượng cũng là tương đối. Cái trong mối quan hệ này được coi là chất, trong mối quan hệ khác được coi là lượng. Chẳng hạn, số 4 trong mối quan hệ phân biệt với các số nguyên dương khác được coi là chất. Nhưng trong mối quan hệ 4 mà tổng bằng 4 số 1 cộng lại hoặc 2 số 2 cộng lại thì được coi là đại lượng.

3.3.2.2. nội dung quy tắc

* Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất

Mỗi sự vật đều có lượng, chất và chúng biến đổi trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Lượng thay đổi nhanh hơn chất lượng, nhưng không phải mọi sự thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay đổi triệt để về chất. Sự thay đổi về lượng không dẫn đến sự thay đổi về chất chỉ trong những giới hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là bản chất của nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.

Giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng hoặc giảm) không dẫn đến sự thay đổi về chất gọi là . bằng cấp . Nói cách khác, bằng cấp là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là phạm vi giới hạn mà trong đó một sự thay đổi về lượng (tăng hoặc giảm) chưa gây ra sự thay đổi cơ bản về chất của sự vật diễn ra. Chẳng hạn, mức độ phẩm chất của sinh viên là từ khi nhập học đến khi bảo vệ thành công luận văn, đồ án tốt nghiệp.

Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của vật gọi là điểm nút . Thời điểm bảo vệ thành công đồ án, luận văn tốt nghiệp của sinh viên chính là bước ngoặt chuyển từ chất lượng sinh viên sang chất lượng cử nhân.

Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới. Bước nhảy vọt làm cho sự phát triển của sự vật bị gián đoạn.

* những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng

Chất mới ra đời sẽ tác động đến sự thay đổi của lượng mới (làm thay đổi quy mô, nhịp điệu, tốc độ v.v… của sự phát triển của sự vật). Ví dụ, khi bạn ra trường, tốc độ đọc, hiểu vấn đề của bạn tốt hơn so với khi còn là sinh viên, v.v. Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng gây ra những thay đổi về chất, mà những thay đổi về chất cũng gây ra những thay đổi về lượng.

Tham Khảo Thêm:  sáng kiến kinh nghiệm mầm non 3-4 tuổi

* Các hình thức nhảy

Bước nhảy chuyển hóa về chất của sự vật rất đa dạng, phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Căn cứ vào nhịp điệu khi thực hiện điệu múa, người ta chia điệu múa thành nhảy đột ngột và nhảy dần dần .

Sự nhảy vọt đột ngột, chất của sự vật thay đổi nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cơ bản cấu thành sự vật. Nhảy vọt dần dần là quá trình biến đổi về chất diễn ra do tích luỹ dần dần các phần tử của chất mới và mất dần các phần tử của chất cũ. Bước nhảy tổng thể là bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành nên sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số mặt, yếu tố hoặc bộ phận của sự vật đó. Trong lĩnh vực xã hội, sự thay đổi về lượng gọi là “tiến hóa”, sự thay đổi về chất gọi là “cách mạng”.

Tóm lại, sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo nên mức độ của sự vật. Sự biến đổi về lượng dần dần đạt đến một giới hạn nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất cũ bị phân giải, chất mới ra đời với mức độ mới. Đó là cách mọi thứ phát triển. Quá trình này diễn ra liên tục làm cho mọi vật không ngừng vận động và biến đổi.

3.3.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Trong hoạt động thực tiễn, muốn có sự chuyển biến về chất thì phải tích luỹ về lượng, không được vội vàng chủ quan.

Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “tả khuynh” – nhấn mạnh bước nhảy khi chưa tích lũy đủ về lượng; bởi vì, khi đó rất dễ rơi vào sự phiêu lưu, mạo hiểm. Đồng thời, cần tránh “hữu khuynh” – tuyệt đối hóa tích lũy về lượng, không dám nhảy vọt khi đã tích lũy đủ về lượng; thì dễ rơi vào bảo thủ, trì trệ, ngại khó.

Khi đã tích lũy đủ thì phải bứt phá, tránh bảo thủ, trì trệ, ngại khó. Trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt đúng các dạng bước nhảy và vận dụng sáng tạo.

Để mọi thứ vẫn như cũ, họ phải nhận thức được mức độ của chúng và không cho phép lượng thay đổi vượt quá giới hạn của mức độ. Ví dụ, khi sử dụng các thiết bị điện, hãy chú ý đến công suất, hiệu điện thế của nó, nếu không sẽ bị chập cháy, v.v.

3.3.3. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn)

3.3.3.1. Ý tưởng

Xung đột Phép biện chứng là mối quan hệ qua lại của hai mặt đối lập biện chứng. Đối diện là những mặt có đặc điểm, thuộc tính, có tính quyết định, có xu hướng phát triển trái ngược nhau và tồn tại khách quan trong sự vật.

Sự thống nhất của các mặt đối lập hiểu theo 3 nghĩa: Các mặt đối lập nương tựa vào nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau; giữa hai mặt đối lập có những yếu tố giống nhau, giống nhau, tương tự nhau; giữa hai mặt đối lập có sự tác động cân bằng, ngang nhau.

Cuộc đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động, loại trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.

Phép biện chứng duy vật chia thành nhiều loại mâu thuẫn: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không bản chất; mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không bản chất; mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.

3.3.3.2. nội dung quy tắc

Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển của sự vật

Sự đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật. Bởi vì, khi các mặt đối lập thống nhất với nhau thì sự vật vẫn là nó. Nhưng khi mâu thuẫn từ sự khác biệt trở nên gay gắt cần giải quyết thì sự thống nhất cũ của sự vật mất đi, sự thống nhất mới xuất hiện, đó là sự ra đời của sự vật mới thay thế sự vật cũ. Sự thống nhất này mới mâu thuẫn với nhau, rồi được giải quyết, và cứ thế sự vật vận động, biến đổi và phát triển. Lưu ý rằng cả sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập đều có vai trò quan trọng đối với sự vận động và phát triển của sự vật.

3.3.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Cần thấy rằng động lực phát triển của sự vật không ở bên ngoài sự vật mà chính những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Mâu thuẫn là khách quan và phổ biến nên việc nhận thức mâu thuẫn là cần thiết và khách quan. Đừng sợ xung đột, đừng trốn tránh xung đột. Trong hoạt động thực tiễn phải biết nhận diện thời điểm chín muồi của mâu thuẫn để kịp thời giải quyết.

Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện chín muồi, vì vậy không nên vội vàng giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện chưa chín muồi, nhưng cũng không nên để việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách bột phát. Nếu điều kiện chưa chín muồi, có thể thông qua hành động thiết thực để thúc đẩy điều kiện nhanh chóng.

3.3.4. Quy luật phủ định của phủ định

3.3.4.1. Ý tưởng

Tiêu cực là khái niệm chỉ sự thay thế của sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.

phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn, sự phủ định không tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, không tạo ra sự ra đời mới, là lực lượng phủ định nằm bên ngoài sự vật.

phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ tự phủ định , cái phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của sự vật, cái phủ định tạo tiền đề cho cái mới ra đời thay thế cái cũ, lực lượng phủ định ở trong bản thân sự vật.

* Phủ định biện chứng có những đặc điểm sau:

– Sự vật khách quan, tiêu cực tự nó, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Nó là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật quy định.

– Có tính phổ biến, tức là phủ định biện chứng cả về tự nhiên, xã hội và tư duy con người.

Có tính kế thừa (giữa cái cũ và cái mới có mối quan hệ với nhau), không phải là phủ định hoàn toàn cái cũ mà là kế thừa có chọn lọc những cái cũ không còn phù hợp.

3.3.4.2. Nội dung của quy tắc

Phủ định của phủ định là khái niệm nói rằng sự vận động và phát triển của sự vật qua hai lần phủ định biện chứng, dường như trở lại điểm xuất phát ban đầu nhưng cao hơn.

Sự phủ định đầu tiên làm cho sự vật cũ trở nên đối nghịch với nó. Sau những lần phủ định tiếp theo, đến một lúc nào đó sẽ ra đời một sự vật mới mang nhiều đặc điểm giống với sự vật (xuất phát) ban đầu. Như vậy, hình thức đã trở lại như cũ nhưng không còn như trước, có vẻ lặp lại cái cũ nhưng cao hơn. Ví dụ: hạt ngô (khẳng định ban đầu) – cây ngô (phủ định thứ 1 – đối lập với hạt ngô – khởi điểm) – lõi ngô (phủ định thứ 2 – phủ định của phủ định).

Phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu trình phát triển, đồng thời là điểm xuất phát của chu trình phát triển tiếp theo, tạo ra vòng xoáy của sự phát triển. Mỗi dòng mới của hình xoắn ốc thể hiện mức độ phát triển cao hơn. Sự liên tiếp của các hình xoắn ốc thể hiện sự vô tận của sự phát triển.

3.3.4.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Quy luật phủ định của phủ định tạo cơ sở để hiểu sự ra đời của cái mới, mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ định sạch trơn; đồng thời phải biết chắt lọc những mặt tích cực của cái cũ.

Chống chủ nghĩa hư vô; Đồng thời, chống bảo thủ bám lấy những gì lỗi thời, lạc hậu, không chịu đổi mới.

Cần phải hiểu rằng sự phát triển không phải là một đường thẳng mà là một đường xoắn ốc đi lên. Tức là trong quá trình vận động và phát triển còn nhiều khó khăn, phức tạp. Phát triển không phải là một đường thẳng.

  1. SỰ TỰ TIN LÝ THUYẾT CỦA TÀI LIỆU ĐỐI THOẠI

Học thuyết nhận thức duy vật biện chứng là một bộ phận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; là khoa học nghiên cứu bản chất, quy luật, hình thức, phương pháp nhận thức, v.v…, từ đó giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học – con người có khả năng nhận thức bản chất thế giới hay không. hay không?

4.1. Bản chất của nhận thức

4.1.1. khái niệm nhận thức

Theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, thông qua đó con người tư duy và không ngừng tiếp cận đối tượng.

Theo triết học duy vật biện chứng, Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người một cách chủ động, có ý thức và sáng tạo trên cơ sở hiện thực lịch sử – xã hội cụ thể. .

4.1.2. Các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức

* chủ nghĩa duy tâm chủ quan nhận thức đó là nhận thức chủ quan của con người về sự vật chứ không phải nhận thức của họ về sự vật,

* chủ nghĩa duy tâm khách quan không phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người, nhưng thần bí hóa quá trình nhận thức của con người.

* Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng :

Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở của hiện thực.

Con người có khả năng nhận thức thế giới. Không có gì mà con người không nhận thức được, chỉ có điều mà con người chưa nhận ra.

Nhận thức là một quá trình biện chứng, có sự vận động, biến đổi và phát triển, đi từ cái chưa biết đến cái biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn nhưng không có giới hạn cuối cùng. .

– Nhận thức phải căn cứ vào thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích nhận thức, tiêu chí kiểm nghiệm chân lý.

4.2. Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý thuyết

4.2.1. Khái niệm thực tế và lý thuyết

4.2.1.1. khái niệm thực tế

* Luyện tập là tổng thể những hoạt động có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Thực hành là hoạt động khi con người dùng công cụ tác động vào một đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó biến đổi theo mục đích của mình.

Với tư cách là hoạt động đặc trưng của bản chất con người, thực tiễn được các thế hệ loài người không ngừng phát triển qua các quá trình lịch sử.

Như vậy, thực tiễn có ba đặc điểm là hoạt động thể chất, tình cảm, lịch sử-tự nhiên và có mục đích.

* Các hình thức thực hành .

Hoạt động sản xuất vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người là hình thức cơ bản và quan trọng nhất của thực tiễn.

– Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị – xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực xã hội, cải tạo các quan hệ xã hội như đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, mít tinh, biểu tình. …

Hoạt động trải nghiệm là một hình thức đặc biệt của thực hành. Thí nghiệm bao gồm thí nghiệm sản xuất, thí nghiệm khoa học và thí nghiệm xã hội được tiến hành trong điều kiện nhân tạo

– Các hoạt động thực tiễn phi cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp luật, đạo đức… được mở rộng và có vai trò ngày càng lớn đối với sự phát triển của xã hội.

4.2.2.2. khái niệm lý thuyết

* lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên, thường xuyên của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và được biểu hiện bằng hệ thống các nguyên tắc, quy luật, quy luật.

* Lý thuyết có các đặc điểm sau:

– Tính hệ thống, khái quát cao, logic chặt chẽ.

Cơ sở của lý thuyết là kiến ​​thức và kinh nghiệm thực tế.

Lý luận có thể phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng.

4.2.2. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

4.2.2.1. Vai trò của thực hành trong lý luận

Thực tiễn là cơ sở và là động lực của nhận thức và lý luận. Không có thực hành thì không thể có lý thuyết

Thực tiễn là mục đích của nhận thức và lý luận.

Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng sai của nhận thức và lý luận.

4.2.2.1. Vai trò của lý thuyết trong thực tế

– Lý thuyết đóng vai trò soi đường, dẫn đường, chỉ đạo Luyện tập. Lý luận khoa học thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần cải tạo thế giới khách quan, cải tạo hiện thực.

– Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng tạo thành phong trào thiết thực rộng lớn của quần chúng.

– Lý thuyết đóng vai trò phương hướng, dự báo đối với hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn tích cực, tự giác, làm cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, lòng vòng, tích cực, tự giác hơn.

4.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Vai trò của thực tiễn trong nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta phải nắm vững quan điểm thực tế .

Quan điểm này đòi hỏi việc nhận thức phải xuất phát từ thực tế, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn (thước đo) của nhận thức; coi trọng tổng kết thực tiễn.

Nghiên cứu lý luận phải gắn với thực tiễn; nếu xa rời thực tế sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu; ngược lại, nếu chuyên chế vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa kinh nghiệm.

———————

[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Tập đầy đủ, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2002, tập. 21, tr. 403.

[2] V.I. Lênin: Tập đầy đủ, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 18, tr.151.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen: Tập đầy đủ, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2002, tập. 20, tr. 201.

Related Posts

bố cục bài thơ về tiểu đội xe không kính

Mục lục Hệ thống kiến ​​thức hỗ trợ viết 9 bài thơ về tiểu đội xe không kính Tác giả Công việc Hoàn cảnh sáng tác Ý…

lập kế hoạch cho bản thân trong 5 năm tới

Một kế hoạch phát triển bản thân chi tiết sẽ là bước đệm vững chắc để bạn đạt được những mục tiêu trong tương lai. Điều này…

lý thuyết hóa hữu cơ ôn thi đại học cần nhớ

Trọn Bộ Lý Thuyết HÓA HỌC Vô Cơ & Hữu Cơ Đề Thi THPT Quốc Gia cực hay. Hệ thống Trọn bộ Lý Thuyết Hữu Cơ & Vô…

kịch bản ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc

Bạn đang xem: Kịch bản chương trình ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc hay TRONG thpttranhungdao.edu.vn Ngày Đại đoàn kết toàn dân tộc là gì?…

family types vary in different countries and among different cultures

UBND TỈNH BẮC NINH GIAO DỤC VA ĐAO TẠO Đề kiểm tra học kỳ I NĂM HỌC 201 9 -20 20 Môn thi: TIẾNG ANH – LỚP…

phiếu đánh giá trẻ cuối độ tuổi 5 6 tuổi

Nội dung chính CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỮ GIỚI CỦA TRẺ CUỐI 5 TUỔI I. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT II. PHÁT…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *